Mục Lục
- I. Nguồn gốc, ý nghĩa và cấu trúc mùa Chay
- II. Cử hành phụng vụ trong mùa Chay
- III. Một số quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay
- 1. Chúa nhật mùa Chay
- 2. Ngày trong tuần thuộc mùa Chay
- [81 Lm. Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Tổng quát (Tp. HCM: Đại Chủng Viện thánh Giuse, 2001), tr. 92.
- [82] Sđd., tr. 86.
- [83] Sđd., tr. 86.
- [84] Michel COIRAULT, Pour connaitre les fêtes juives, chrétiennes et musulmanes, Cerf, 1991, tr. 12-13.
- [85] Sách lễ Rôma, Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, Roma 1975, số 28.
- [86] Văn kiện vừa dẫn, số 22.
- [87] Jean CHEVALIER và Alain GHEERBRANT, Từ điển văn hoá thế giới, Mục từ “Tro”, bản dịch việt ngữ do Nhà xuất bản Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du thực hiện, 1997, tr. 948.
- [88] P. JOUNEL, Le cycle pascal, trong A.G. Martimort, l’Eglise en prière, tome IV “La liturgie et le temps”, Desclée, 1983, tr. 82.
- [89] Sách lễ Rôma, việt ngữ 1992, tr. 186.
- [90] A.G. MARTTIMORT, quyển IV “La liturgie et le temps” trong “L’Eglise en prière”, Deselée, 1983, tr. 87.
- [91] Sách lễ Rôma, Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch, Roma 1975, số 5.
- [92] Bảng ghi ngày phụng vụ, số 4.
- [93] Bảng ghi ngày phụng vụ, từ số 2 đến số 9.
- (Nguồn: Năm Phụng Vụ, tr. 95-106 do Lớp thần IV, Trung tâm Học vấn Đa Minh, Niên Khoá 2012-13 thực hiện cho mục đích thuyết trình nhóm. Khi đăng web, chúng tôi lược bớt 1 đoạn, vì vậy có sự khác biệt so với sách in.
Trong năm Phụng vụ, các mùa Phụng vụ có những tầm quan trọng khác nhau. Tam Nhật Vượt qua luôn là trung tâm điểm với cao điểm là lễ Phục sinh. Các mùa khác có những ý nghĩa cũng như tầm quan trọng nhất định, trong đó mùa Chay giữ một ý nghĩa đặc biệt. Mùa Chay kéo dài từ thứ tư lễ Tro và kết thúc trước thánh lễ chiều Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh. Mùa Chay là thời gian chuẩn bị mừng đại lễ Vượt qua, với lời kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ tội lỗi, hãy hoán cải, cầu nguyện, chay tịnh và thi hành bác ái.[81]
Do đó, mùa Chay là thời gian rất ý nghĩa đối với mỗi tín hữu khi tham dự vào các nghi thức Phụng vụ. Với tâm tình hoán cải của một người con tội lỗi, mùa Chay mời gọi mỗi người hãy hòa giải với Thiên Chúa qua việc từ bỏ đời sống tội lỗi của mình. Nhờ đó mỗi người cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với thời gian chuẩn bị trong mùa Chay, các tín hữu hân hoan bước vào việc cử hành mầu nhiệm cao đẹp nhất, mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
I. Nguồn gốc, ý nghĩa và cấu trúc mùa Chay
1. Nguồn gốc và ý nghĩa
Chúng ta không biết một cách chắc chắn rằng mùa Chay do ai thiết lập và đã xuất hiện ở đâu trước tiên, nhưng chỉ biết vào khoảng cuối thế kỷ 3 đầu thế kỷ 4 tại Ai Cập mùa Chay đã hình thành một cách rõ nét, còn tại Rôma vào cuối thế kỷ 4 đã có các quy định chặt chẽ về mùa Chay. Một trong những đặc tính nổi bật của mùa Chay là việc giữ chay tịnh. Khác với chay tịnh mừng lễ Phục sinh thường đi liền trước buổi cử hành Đêm vọng Phục sinh và là thành phần chính yếu của cử hành này, còn chay tịnh của mùa Chay lúc ban đầu vừa nhằm chuẩn bị xa cho Đại lễ Phục sinh, vừa theo gương Đức Giêsu giữ chay tịnh trong hoang địa 40 ngày trước khi bước vào cuộc đời công khai (Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13).
Ngoài việc giữ chay tịnh thì cầu nguyện và thực hành bác ái là những đặc tính nổi bật của mùa Chay. Giáo hội luôn liên kết ba hành động này trong đời sống của dân Chúa, bởi vì đây chính là giáo huấn của Chúa Kitô (Mt 6,1-18). Tại Rôma vào cuối thế kỷ IV, các dự tòng chuẩn bị lãnh các bí tích khai tâm vào đêm vọng Phục sinh được mời gọi sống ba đặc tính mùa Chay này, họ phải tập luyện từ bỏ con người cũ, sống đời bác ái và chuyên chăm cầu nguyện. Cũng trong thời gian này các Kitô hữu cũng được mời gọi hoán cải và sám hối để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh, cách riêng những người phạm tội nặng và công khai như bỏ đạo, giết người, ngoại tình … họ phải thật lòng sám hối và làm việc đền tội trong suốt mùa Chay, để cuối cùng được ơn tha thứ cũng như hoà giải với Thiên Chúa và Giáo hội trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, trước lễ Phục sinh.
Như vậy mùa Chay mang ý nghĩa cho mọi người:
– Đối với toàn thể dân Kitô giáo đây là thời gian mọi người chuyên chăm cầu nguyện, giữ chay tịnh và thực hành bác ái.
– Đối với các dự tòng đó là thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho họ lãnh các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh.
– Đối với các hối nhân đây là thời kỳ đền tội và sám hối để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ và hoà giải.
2. Cấu trúc mùa Chay
Khi nói đến mùa Chay người ta thường nghĩ đến 40 ngày chay tịnh; thực ra cách tính 40 ngày chỉ có vào khoảng giữa thế kỷ IV (từ năm 354 đến 384), vào thời đó mùa Chay bắt đầu từ Chúa nhật thứ nhất mùa Chay và kết thúc trước Tam Nhật Vượt qua và kéo dài đúng 40 ngày. Nhưng vào cuối thế kỷ 6 đầu thế kỷ VII thần học về ngày Chúa nhật phát triển, người ta không tính ngày Chúa nhật trong số 40 ngày chay tịnh nữa, và để bù vào những ngày Chúa nhật bị mất, người ta kéo dài mùa Chay thêm một số ngày trước Chúa nhật I mùa Chay để giữ ý nghĩa biểu tượng của con số 40, cuối cùng ngày thứ Tư trước Chúa nhật I mùa Chay được chọn làm ngày khởi đầu mùa Chay. Nhưng dầu sao cách chọn ngày thứ Tư vẫn không đủ 40 ngày của mùa Chay, bởi vì mùa Chay có 6 Chúa nhật (5 Chúa nhật và Chúa nhật lễ Lá), và nếu muốn tính đủ 40 ngày thì phải chọn ngày thứ Hai chứ không phải thứ Tư. Thế nhưng Giáo hội lại chọn ngày thứ Tư vì hai lý do sau đây:
– Truyền thống từ rất lâu trong Giáo hội vẫn coi ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần là những ngày sám hối, vì vậy khi chọn thứ Tư điều đó sẽ phù hợp với ý nghĩa sám hối và hoán cải của mùa Chay.
– Giáo hội kế thừa truyền thống Do thái về biến cố xuất Ai Cập, mà theo truyền thống này Chúa đã giải thoát dân và giao ước với họ vào ngày thứ Tư trong tuần. Ngày thứ Tư được coi là mốc điểm của biến cố cứu độ, đó cũng chính là ý nghĩa của mùa Chay khi Giáo hội chuẩn bị mừng biến cố Vượt qua của Chúa Kitô.[84] Vì những lý do này mà ngày nay chúng ta nên hiểu 40 ngày chay tịnh của mùa Chay chỉ mang nghĩa biểu tượng chứ không theo cách tính toán chính xác. Vì thế “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch” đã không xác định mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày mà chỉ nói cách chung: “Bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro và kết thúc ngay trước thánh lễ Tiệc Ly”;[85] trong khi đó lại minh nhiên xác định mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày.[86]
a. Thứ Tư lễ Tro – khởi đầu mùa Chay
Ban đầu ngày thứ Tư khởi đầu mùa Chay không có cử hành nào đặc biệt, nhưng vào thế kỷ X tại vùng Rhénan (Đức), người ta thấy việc xức tro được cử hành rộng rãi vào ngày thứ Tư. Quả thực, cử chỉ xức tro có trong văn hoá của nhân loại từ lâu nhưng mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Người Yogi và người Sadđou bên Ấn Độ lây tro xoa mình để biểu thị việc chối bỏ mọi vinh hoa trần thế; còn truyền thống Trung Hoa lại phân biệt tro khô với tro ẩm, theo Lieu-Tseu (Liệt Tử) thì tro ẩm là điềm báo tử.[87] Còn trong truyền thống Kinh thánh, tro là biểu tượng của sự mau qua, của tính bấp bênh đời người. Cuộc sống con người chỉ là tạm bợ, dù con người có là gì đi nữa thì không ai thoát cái chết, chính cái chết sẽ biến đổi tất cả ra tro bụi. Abraham trong cuộc mặc cả với Chúa về việc tiêu hủy thành Sodoma và Gomora (St 18,16-33) đã tự nhận mình chỉ là tro bụi (St 18,27). Trước mặt Chúa con người yếu đuối mỏng dòn, họ chỉ là tội nhân cần được thanh luyện. Lửa thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ thiêu đốt tội lỗi và tính kiêu căng con người thành tro bụi (Ed 28,18). Vì thế, Tro còn là dấu chỉ của tâm tình sám hối và hoán cải (Gs 7,6; 2 Sm 13,19; Ed 27,30; G 2,12; 42,6 ), người rắc tro lên đầu hoặc ngồi trên tro biểu lộ sự buồn phiền, đau khổ và ăn năn.
Giáo hội ban đầu cũng duy trì ý nghĩa xức tro theo truyền thống Cựu ước. Các tín hữu thuở ban đầu thường xức tro để tỏ lòng sám hối; đặc biệt là đối với người có tội công khai thì cử chỉ này là cách biểu hiện bề ngoài của thái độ sám hối nội tâm. Vào thời đầu của Giáo hội, xức tro diễn tả hai ý nghĩa cơ bản sau:
– Con người chỉ là thụ tạo, thân phận mau qua. Trước mặt Thiên Chúa con người không là gì để tự mãn, mỏng dòn và mau thay đổi.
– Xức tro nhắc đến thái độ nội tâm của con người: vì là thụ tạo, mau qua, con người phải biết khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Loại bỏ tính tự mãn là cách thức tẩy trừ tội lỗi để đưa con người sống ân tình với Thiên Chúa, Đấng không thay đổi và bảo đảm sự hiện hữu của con người.
Cho đến năm 1091 (thế kỷ XI) thì công đồng miền Bénévent (Ý) mới chỉ thị: “Ngày thứ Tư lễ Tro, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, đàn ông và phụ nữ, đều phải nhận tro” và chỉ từ thế kỷ XIII thì việc xức tro mới thực sự được cử hành trong phụng vụ của toàn Giáo hội.[88]
b. Các Chúa nhật dành cho dự tòng
Trong những thế kỷ đầu Giáo hội chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho các dự tòng trước khi cử hành thánh tẩy cho họ. Có ba giai đoạn trong tiến trình gia nhập Kitô giáo:
– Giai đoạn khởi giảng Tin Mừng là thời gian đầu tiên các dự tòng có thiện cảm và bước đầu tìm hiểu Kitô giáo.
– Giai đoạn học đạo kéo dài nhiều năm, và thời gian cuối của giai đoàn này thường trùng vào mùa Chay.
– Giai đoạn nhiệm huấn kéo dài trong suốt tuần Bát nhật Phục sinh sau khi đã chịu thánh tẩy.
Vì giai đoạn cuối để gia nhập đạo trùng vào mùa Chay nên Giáo hội cử hành một số nghi thức đặc biệt dành cho các dự tòng: Chúa nhật I mùa Chay cử hành Nghi thức tuyển chọn, còn gọi là Nghi thức ghi danh, qua nghi thức này, người dự tòng chính thức là ứng viên đón nhận các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh. Sau đó vào Chúa nhật, thứ III, IV và V họ sẽ tham dự các Nghi thức “khảo hạch”, tức giám mục sẽ giảng dạy và hỏi các dự tòng tổng quát về giáo lý Kitô giáo, kế đó ngài sẽ cử hành Nghi thức trao kinh cho họ, nghĩa là trao cho họ hai kinh Tin Kính và Lạy Cha, họ sẽ học hai kinh này và đọc lại cho giám mục nghe mỗi khi ngài giảng dạy vào những Chúa nhật kế tiếp của mùa Chay trong thời gian học đạo.
II. Cử hành phụng vụ trong mùa Chay
1. Cử hành thứ Tư lễ Tro
Trước công đồng Vaticanô II, vào ngày thứ Tư lễ Tro nghi thức làm phép và xức tro được cử hành ngay đầu thánh lễ, còn trong Nghi thức hiện nay, việc xức tro được đặt trong phần Phụng vụ Lời Chúa sau bài Tin mừng, và người ta không nhất thiết phải cử hành Thánh Thể sau khi xức tro, bởi vì Nghi thức xức tro có thể cử hành trong thánh lễ hay ngoài thánh lễ.[89] Khi cử hành ngoài thánh lễ, sau phần xức tro cộng đoàn sẽ đọc lời nguyện chung để kết thúc buổi cử hành phụng vụ. Sách lễ Rôma hiện nay đặt nghi thức xức tro vào loại cử hành sám hối (celebration pénitentielle).
Trước đây khi xức tro chỉ có một công thức duy nhất: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi” (St 3,19) công thức này được trích từ Cựu ước nhắc đến giá trị truyền thống của cử chỉ xức tro và ý nghĩa đích thực mỏng manh của đời người. Nhưng trong Nghi thức hiện nay, công thức này lại được bổ túc bằng công thức thứ hai trích từ Tân ước, lời của Đức Kitô: “Hãy sám hối và đón nhận Tin mừng” (Mc 1,15). Chính lời Đức Kitô soi sáng và mang cho cử chỉ xức tro ý nghĩa mới: xức tro không chỉ nhắc đến thân phận mỏng dòn yếu đuối của nhân loại, nhưng việc đón nhận Tin mừng sẽ làm cho con người thấy rõ hơn thân phận yếu đuối của mình, và như thế cử chỉ sám hối vừa là điều kiện đi trước vừa là kết quả theo sau của việc đón nhận Lời Chúa.
2. Các bài đọc Kinh thánh trong thánh lễ mùa Chay
Bài đọc ngày Chúa nhật: các bài đọc này xoay quanh hai bài Cựu ước và Tin mừng, còn bài thánh thư khi thì soi sáng cho bài Cựu ước, khi thì khai triển tư tưởng của bài Tin mừng. Đối với các bài Cựu ước, mỗi năm trong ba năm A, B, C đều nhắc đến các biến cố lớn trong lịch sử dân Chúa xưa để hướng đến mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Chẳng hạn chúng ta có các chủ đề của từng Chúa nhật như sau:
+ Giao ước – sa ngã, giao ước Nôê, dân được tuyển chọn tuyên xưng niềm tin (Chúa nhật I);
+ Abraham – ơn gọi, hiến tế Isaac, giao ước (Chúa nhật II);
+ Môsê – Nước chảy từ tảng đá, Chúa ban lề luật, Thiên Chúa
mặc khải Danh của Người (Chúa nhật III).
+ Dân Chúa sống trong đất hứa – Vua Đavít, lưu đày và trở
về, lễ Vượt qua trong đất hứa (Chúa nhật IV).
+ Các ngôn sứ – Ezekiel, Giêrêmia, Isaia (Chúa nhật V).
Còn đối với các bài Tin mừng, thì Chúa nhật I và II cả ba năm đều đọc như nhau trình thuật Chúa Kitô chịu cám dỗ (CN I) và biến hình (CN II) theo các Phúc âm nhất lãm. Ba Chúa nhật còn lại được gọi là các Chúa nhật “khảo hạch” dành cho dự tòng, và theo truyền thống người ta đọc ba trình thuật sau đây: mặc khải của Chúa cho người thiếu phụ SaMaria (Ga 4,5-42), Chúa chữa người mù từ khi mới sinh (Ga 9,1-41) và sự phục sinh của Lazarô (Ga 11,1-45). Hiện nay, ba đoạn Tin mừng này được đọc trong ba Chúa nhật (III, IV, V) của năm A, nhưng theo luật phụng vụ vẫn có thể đọc trong năm B và C.
Các bài đọc trong tuần: Cũng theo các chủ đề chính yếu của ngày Chúa nhật, bài đọc I luôn luôn trích từ Cựu ước chứ không lấy từ các thư Tân ước, các bài Tin mừng nhắc đến tâm tình sám hối và hoán cải. Kể từ tuần IV mùa Chay, các bài Tin mừng lấy từ Phúc âm Gioan, đặc biệt vào tuần V các trình thuật xoay quanh những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do thái để chuẩn bị dẫn đến cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.
3. Các lời nguyện trong thánh lễ
Các lời nguyện chia làm hai loại: Kinh Tạ ơn và các lời nguyện khác.
– Kinh Tạ ơn có nội dung rất phong phú nhờ 12 lời tiền tụng khác nhau: 6 lời tiền tụng dành riêng theo từng Chúa nhật với các chủ đề như: cám dỗ, biến hình, thiếu phụ SaMaria, người mù từ khi mới sinh, Lazarô sống lại và lễ Lá); 6 lời tiền tụng chung khác được dùng trong suốt mùa Chay, trong đó 2 lời tiền tụng cuối được dành cho tuần 5 và mấy ngày đầu của Tuần Thánh. Tất cả 12 lời tiền tụng này đều có nguồn gốc từ rất lâu trong truyền thống phụng vụ Rôma, chẳng hạn 4 lời tiền tụng chung được đọc trong suốt mùa Chay có từ thế kỷ V.[90]
– Các lời nguyện khác cũng theo các chủ đề của từng Chúa nhật mùa Chay và được trích từ các nguồn phụng vụ cổ xưa. Chẳng hạn nhấn mạnh thân phận yếu đuối của con người và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa; ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô; niềm vui của những người được cứu độ; những đòi hỏi của Tin mừng và sự dấn thân của người tín hữu…
4. Chúa nhật lễ Lá
Trước cuộc canh tân Tuần Thánh của đức Piô XII (1955), Nghi thức làm phép và rước lá được cử hành trong nhà thờ và được đặt trong phần cử hành Lời Chúa: sau khi làm phép lá xong, chỉ mình chủ tế cùng với người giúp lễ cầm cành lá đi rước chung quanh nhà thờ, trong lúc đó mọi người đứng đợi chủ tế rước xong rồi mới tham dự vào Thánh Thể. Tuy nhiên, cuộc canh tân Nghi thức Tuần Thánh của đức Piô XII (1955) đã trả lại cho Nghi thức những giá trị và ý nghĩa mà Giáo hội thực hiện trong những thế kỷ đầu, đồng thời phục hồi sự tham dự tích cực của người tín hữu. Chẳng hạn mọi người được mời gọi tham dự vào nghi thức làm phép lá và đi rước. Nghi thức phải được cử hành ở một nơi thích hợp ngoài nhà thờ, từ nơi đó đoàn rước tiến về nơi cử hành thánh lễ, nghĩa là có cuộc rước lá thực sự của toàn thể dân chúng đi từ nơi này đến chỗ kia, chứ không phải cuộc rước chỉ gồm một vài người trong khi đó dân chúng đứng đợi. Nghi thức 1955 cũng lấy lại truyền thống đọc bài Tin mừng Chúa Kitô khải hoàn vào Giêrusalem để đọc trong nghi thức làm phép lá. Cuối cùng Nghi thức Tuần Thánh hiện nay đã đón nhận Nghi thức 1955 gần như nguyên vẹn chỉ với một vài thích nghi nhỏ.
III. Một số quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay
Quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay khá chặt chẽ và được xếp thành ba loại sau đây: Chúa nhật, Tuần Thánh và ngày trong tuần.
1. Chúa nhật mùa Chay
Theo “Bảng ghi ngày phụng vụ” trong Sách lễ Rôma các Chúa nhật mùa Chay đứng hàng số 2, có bậc lễ ưu tiên trên các lễ trọng về Chúa, Đức Maria và các thánh. Vì thế khi các lễ trọng trùng vào bất cứ Chúa nhật mùa Chay nào, năm ấy phải dời lễ trọng sang ngày thứ hai liền kế đó.[91]
Ví dụ: Lễ Truyền tin (25/3) của năm 2001 trùng vào Chúa nhật IV mùa Chay năm C, thì ngày 25/3 của năm 2001 phải cử hành thánh lễ và đọc giờ kinh phụng vụ theo Chúa nhật IV mùa Chay, mọi cử hành của lễ Truyền tin phải dời sang ngày thứ Hai (26/3); cùng một trường hợp đối với lễ trọng mừng thánh Giuse bạn trăm năm của Đức Maria 19/3/2000 trùng vào Chúa nhật II mùa Chay B.
Vì Chúa nhật mùa Chay có vị trí quan trọng theo bảng xếp hạng thứ tự các ngày phụng vụ, nên vào ngày Chúa nhật mùa Chay cấm không được cử hành các thánh lễ có nghi thức riêng (RM 372), ví dụ: hôn phối, thêm sức, phong chức, khấn dòng… kể cả thánh lễ an táng. Điều này cho chúng ta hiểu rằng, vào ngày Chúa nhật mùa Chay không được phép dùng bản văn phụng vụ của các thánh lễ có nghi thức riêng, nhưng khi nhu cầu đòi hỏi và cần thiết, vẫn có thể cử hành các nghi thức bí tích vào những ngày này, miễn là phải tôn trọng toàn bộ bài đọc Kinh thánh và bản văn phụng vụ của Chúa nhật mùa Chay đó.
Ví dụ: Chúa nhật III mùa Chay phải cử hành an táng cho một tín hữu, người ta sẽ không được phép cử hành thánh lễ cầu hồn vào ngày này, nhưng phải dùng mọi bản văn của Chúa nhật 3 mùa Chay, rồi sau thánh lễ, sẽ cử hành các nghi thức tiễn biệt cho người quá cố như thường lệ.
Cũng không được phép cử hành thánh lễ bổn mạng, tạ ơn, cầu mùa… vào các ngày Chúa nhật mùa Chay (RM 374). Ví dụ: thánh Vinh Sơn Phêriê mừng ngày 5/4, bổn mạng giáo xứ, theo luật phụng vụ được nâng lên hàng lễ trọng riêng,[92] hôm đó lại nhằm ngày Chúa nhật mùa Chay, thì năm ấy người ta không được phép dâng thánh lễ mừng bổn mạng giáo xứ đúng ngày, mà phải dời vào ngày nào đó thuận tiện trong tuần, vì theo luật, lễ trọng riêng đứng dưới bậc lễ của Chúa nhật mùa Chay nhưng trên bậc lễ của các ngày trong tuần.
2. Ngày trong tuần thuộc mùa Chay
Các ngày thường trong tuần thuộc mùa Chay có vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ buộc,[93] vì thế khi các lễ nhớ buộc trùng vào những ngày thường trong mùa Chay, thì các lễ này trở thành các lễ nhớ tự do, người ta sẽ dùng bản văn phụng vụ của ngày trong tuần mùa Chay, mặc dù linh mục vẫn được phép đọc lời nguyện nhập lễ của vị thánh được nhớ (RM 355). Cũng vậy, trong những ngày này không được phép cử hành thánh lễ ngoại lịch hay nhu cầu do lòng sùng kính riêng (RM 375), ví dụ: thứ Tư đầu tháng kính thánh Giuse, thứ Sáu đầu thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thứ Bảy đầu tháng kính Đức Maria…
Tuy nhiên được phép cử hành các thánh lễ sau đây vào những ngày thường của mùa Chay: các lễ trọng chung và riêng, lễ an táng, lễ bổn mạng giáo xứ hay dòng tu, lễ có nghi thức riêng, lễ kính, lễ tuỳ nhu cầu theo lệnh của bản quyền địa phương, lễ cầu hồn khi vừa được tin một người qua đời (còn gọi là lễ phát tang).