Mục Lục
Dưới đây là lá thư cha Timothy Radcliffe, O.P. (Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh 1992 – 2001) gửi các anh chị em trong giai đoạn đào tạo sơ khởi nhân ngày lễ chân phước Giođanô Saxoni. Trong lá thư này, cha đã suy niệm và nêu ra mẫu gương thánh Maria Mađalêna. Nhân ngày mừng kính thánh nữ (22/7), BBT Thỉnh viện Đa Minh mời anh em Thỉnh sinh và những ai muốn tìm hiểu linh đạo Đa Minh đọc lại lá thư này để xác tín hơn vào con đường mình đang theo đuổi.
Lá thư này được đăng thành ba phần, tựa đề mỗi phần do BBT đặt.
- Phần 1: “Chị tìm ai?”
- Phần 2: “Hãy đến với các anh em của Thầy”
- Phần 3: “Tôi đã thấy Chúa”
Phần 2
“HÃY ĐẾN VỚI CÁC ANH EM CỦA THẦY”
LỜI DẪN: Đặt nền trên lời Đức Giêsu phục sinh nói với thánh nữ Maria Mađalêna “Hãy đi gặp anh em của Thầy” (Ga 20,17), cha Timothy Radcliffe trình bày tầm quan trọng của việc trở nên một thành viên của cộng đoàn Đa Minh. Đây là khía cạnh thứ hai mà việc đào tạo theo tinh thần Đa Minh nhắm đến, mang tính hai chiều: trước hết là việc các tu sĩ Đa Minh đón nhận các “tân binh” với những hạn chế và yếu đuối của họ; sau là việc anh chị em giai đoạn đào tạo sơ khởi tự đào tạo bản thân để ngày một trở nên người anh em trong cộng đoàn Đa Minh.
“Hãy đến với các anh chị em của Thầy”
Chúa Giêsu gọi tên cô Maria và sai cô đến với các anh em của Người. Chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách trở nên một trong những người anh em.
Trở nên một người anh em không phải chỉ là gia nhập một cộng đoàn hay là lãnh tu phục. Việc đó hàm ngụ một sự biến đổi thâm sâu nơi con người của tôi. Trở nên một người anh em ruột thịt của ai đó đâu phải chỉ là có cùng cha mẹ; việc đó hàm ngụ những mối tương quan đã dần dần hình thành tôi nên con người như tôi hôm nay. Tương tự như vậy, việc trở nên một trong những người anh em của thánh Đa Minh sẽ đòi hỏi nơi tôi một sự biến đổi kiên trì, thậm chí đôi khi đớn đau, để trở thành con người hiện tại của tôi. Sẽ có những giai đoạn chết đi và phục sinh kéo dài.
Việc trở nên một trong những người anh em của thánh Đa Minh sẽ đòi hỏi nơi một sự biến đổi kiên trì, thậm chí đôi khi đớn đau, để trở thành con người hiện tại.
Thực sự thì hầu hết anh em Đa Minh là linh mục, và chúng ta thuộc “dòng giáo sĩ”, việc phong chức không làm cho chúng ta mất đi tình anh em. Trong những năm thụ huấn, tôi mong muốn được trở thành một trong những người anh em. Tôi chẳng mong điều gì hơn nữa. Tôi lãnh chức thánh là vì anh em yêu cầu, và vì sứ vụ. Tôi quý trọng chức linh mục, vì sự hiệp thông và lòng từ tâm – trung tâm của đời sống huynh đệ – là dấu chỉ diễn tả một Hội thánh rộng lớn hơn. Nhưng tôi vẫn chỉ là một người anh em như ngày nào. Không có chức tước cao hơn trong Dòng. Đây là lý do khiến tôi tin rằng việc cổ động ơn gọi của các anh em trợ sĩ – tôi không thích từ ngữ này chút nào – là một điều hết sức quan trọng cho tương lai của Dòng. Các anh em ấy nhắc chúng ta nhớ lại tất cả chúng ta là ai, là anh em của thánh Đa Minh. Trong Dòng, không thể có những tu sĩ hạng nhì.
Tôi nhớ khi còn là sinh viên, một linh mục thuộc Tỉnh dòng khác đến thăm cộng đoàn chúng tôi ở Oxford. Khi ông đến, một tu sĩ đang quét dọn nhà khách. Vị khách hỏi: “Anh là thầy phải không?” Người tu sĩ ấy trả lời: “Vâng ạ.” “Thầy cho tôi xin một ly cà phê nhé.” Sau đó, ông yêu cầu người tu sĩ mang hành lý của ông ta lên phòng. Cuối cùng, vị khách bảo: “Thầy này, bây giờ tôi cần gặp cha Bề trên.” Người tu sĩ đáp: “Tôi là Bề trên đây ạ”.
Thế nào là anh em: Những cái nhìn khác nhau
Là một người anh em có nghĩa là các bạn đã thuộc về chúng tôi. Các bạn cảm thấy thoải mái với những người anh em. Nhưng người tu sĩ Đa Minh chúng ta có thể có nhiều quan niệm khác nhau về việc trở thành người anh em.
Một trong những cú sốc khi gia nhập tập viện có thể là khám phá ra rằng những người bạn tập sinh của tôi đến với Dòng với những cái nhìn rất khác tôi về đời sống Đa Minh. Khi gia nhập Dòng, tôi bị thu hút mãnh liệt không những bởi việc tìm kiếm chân lý, mà cả bởi đời sống thanh bần của thánh Đa Minh nữa. Tôi tưởng tượng mình là một người khất thực trên đường phố. Tôi mau chóng khám phá ra rằng hầu hết những người bạn tập sinh của tôi xem chuyện đó là lãng mạn, ngốc nghếch. Một số người trong anh em bị lôi cuốn bởi niềm say mê học hỏi; một số khác thì vì mong muốn đấu tranh cho thế giới công bằng hơn. Các bạn có thể cho là gương mù khi nhìn thấy những tập sinh khác khui ra những thùng đầy ắp sách vở, hay một máy nghe dĩa CD. Có anh em thích mặc áo dòng 24/24 tiếng đồng hồ, còn những người khác lại muốn cởi ra càng nhanh càng tốt. Chúng ta dễ dàng chà đạp lên ước mơ của người khác.
Thường có những căng thẳng giữa các thế hệ anh em. Một số bạn trẻ đến với Dòng ngày hôm nay đánh giá cao truyền thống và những dấu chỉ hữu hình liên quan đến căn tính của Dòng: việc nghiên cứu học thuyết thánh Tôma, những bài hát truyền thống hoặc những bài thánh ca của Dòng, việc mặc tu phục, việc mừng kính các thánh. Thường các cha anh thuộc thế hệ trước lại cảm thấy bối rối trước nỗi khát khao này của các bạn trẻ, là được thấy căn tính Đa Minh hiển hiện rõ nét. Đối với họ, cuộc phiêu lưu đòi phải bỏ lại đàng sau những hình thức cổ xưa, những hình thức dường như cản bước chúng ta rao giảng Tin mừng. Chúng ta phải lên đường, cùng với mọi người, nhìn sự vật qua đôi mắt của họ, phải ẩn danh nếu chúng ta cần tiếp cận họ. Thỉnh thoảng, việc này có thể đưa đến một sự hiểu lầm nào đó, thậm chí còn nghi ngờ lẫn nhau. Những Tỉnh dòng thịnh đạt hôm nay, thường là những Tỉnh dòng thành công trong việc vượt qua những xung đột ý thức hệ như thế. Làm thế nào để chúng ta có thể xây dựng một tình huynh đệ thắm thiết hơn những dị biệt này?
Trước hết, chúng ta phải nhìn nhận cùng một hứng khởi Tin mừng sâu xa trong mỗi người anh em. Mặc áo dòng hay không, chúng ta đều rao giảng về Chúa Phục Sinh. Tôi luôn luôn thấy thoải mái những lúc ở giữa anh em, có khi cùng với vài anh em ngồi bên bờ sông trong khu rừng Amazon, đọc Thánh vịnh đang khi mặc sơ mi, có khi cử hành phụng vụ trang trọng tại Toulouse. Ngoài những đòi hỏi khách quan của lời khấn và Hiến pháp, chúng ta nhìn nhận một số điểm tương tự như một gia đình: một niềm vui đúng nghĩa; ý thức về sự bình đẳng giữa mọi người; nỗi đam mê thần học, thậm chí có những khuynh hướng trái ngược nhau hoàn toàn; sự tin tưởng vào truyền thống dân chủ; không có sự phô trương. Tất cả những điều này hướng về một cách sống mà chúng ta chia sẻ với nhau, dù có những khác biệt bề ngoài.
Thứ đến, những cái nhìn khác nhau của chúng ta về đời sống Đa Minh có thể được hình thành từ những giai đoạn khác nhau trong lịch sử Hội thánh cũng như lịch sử Dòng. Nhiều anh em gia nhập Dòng vào thời kỳ Công đồng Vaticano II, lớn lên trong một đạo Công giáo tự tin và xác tín về căn tính của mình. Cuộc phiêu lưu của chúng ta lúc đó là phải vươn tới những người còn ở xa Chúa Kitô bằng cách lật đổ những rào cản. Động lực hướng dẫn các anh chị em chúng ta thời ấy là lòng khao khát được gần gũi Chúa Kitô vô hình, Đấng hiện diện trong nhà máy, nơi bản làng, ở trường đại học. Chúng ta che đậy căn tính hữu hình của mình là để dễ dàng giảng thuyết. Chẳng hạn, các linh mục thợ là dấu chỉ của Thiên Chúa, Đấng gần gũi với những kẻ hầu như đã quên mất danh hiệu của Người.
Nhiều người ngày hôm nay đến với Dòng, nhất là ở Tây phương, đi theo một lộ trình khác, họ lớn lên trong một môi trường xa lạ với Kitô giáo. Có lẽ lúc này các bạn muốn tán tụng hay khẳng định niềm tin mà bạn đã ấp ủ và yêu mến. Các bạn muốn được nhìn nhận như một tu sĩ Đa Minh, vì như thế cũng là thuộc về sứ vụ giảng thuyết. Cùng một hứng khởi Tin mừng đã khiến người này mặc áo dòng, người khác thì bỏ áo dòng.
Sự căng thẳng này xét cho cùng là điều hữu ích và cần thiết cho sự sống của Dòng. Chấp nhận người trẻ vào Dòng là một thách đố cho chúng ta. Giống như sự kiện một đứa trẻ chào đời sẽ làm thay đổi toàn bộ đời sống gia đình, mỗi một thế hệ đến với chúng ta cũng làm thay đổi tình anh em. Các bạn đến với những vấn nạn mà không phải lúc nào chúng tôi cũng có thể trả lời được, với những lý tưởng có thể lật tẩy chúng tôi, với những ước mơ mà có thể chúng tôi không chia sẻ được. Các bạn gia nhập Dòng với gia đình, bạn bè, văn hóa và sắc tộc của bạn. Các bạn đến làm cho chúng tôi bị xáo trộn, và vì thế chúng tôi cần có các bạn. Thường các bạn đến và muốn biết đâu là yếu tố cốt lõi của đời sống Đa Minh, mà điều này đôi khi chúng tôi đã quên hoặc coi nhẹ: một nếp sống cầu nguyện chung vừa tuyệt vời vừa thâm thúy; một tình huynh đệ sâu xa nhờ đó chúng tôi quan tâm đến người khác hơn; một lòng can đảm giũ bỏ những ràng buộc cũ kỹ để lại lên đường. Thường thường, Dòng được canh tân nhờ những người trẻ đến với Dòng và kiên trì cố gắng xây dựng một đời sống Đa Minh mà họ đã đọc được trong sách vở. Bạn cứ tiếp tục kiên trì đi.
Thường thường, Dòng được canh tân nhờ những người trẻ đến với Dòng và kiên trì cố gắng xây dựng một đời sống Đa Minh mà họ đã đọc được trong sách vở. Bạn cứ tiếp tục kiên trì đi.
Thật là dễ dàng cho chúng tôi, những người đã vào Dòng trước các bạn, bực bội nói rằng: “Các bạn nhập bọn với chúng tôi chứ đâu phải chúng tôi nhập bọn với các bạn.” Đúng đấy, nhưng chỉ đúng có một nửa. Vì khi vào Dòng, chúng ta trao mình vào tay cả những anh em sẽ đến sau. Chúng ta cam kết vâng phục những người chưa chào đời. Quả thực chúng ta không buộc phải tái lập Dòng cho mỗi thế hệ, nhưng một phần thiên tài của thánh Đa Minh là sáng lập một Dòng mà bản chất là có khả năng thích ứng và linh động. Chúng ta cần được đổi mới bởi những người bị cuốn hút vì nhiệt tình đối với nhãn quan của thánh Đa Minh. Chúng tôi không chiêu mộ các bạn để chiến đấu trong những trận chiến cổ xưa. Chúng tôi phải chống lại cơn cám dỗ muốn xếp các bạn vào những phạm trù thời thanh xuân của chúng tôi, rồi gán cho các bạn nhãn hiệu “bảo thủ” hay “cấp tiến”, cũng như các bạn không nên loại trừ chúng tôi như những tàn tích của “những năm 70”.
Các bạn cũng sẽ bị thách đố bởi những người đi trước các bạn, hay ít là tôi mong như vậy. Chấp nhận có nhiều đường lối khác nhau để trở thành một tu sĩ Đa Minh không có nghĩa là ai cũng thể phát minh ra cách giải thích riêng của mình. Chẳng hạn, tôi không thể quyết định rằng đối với tôi, lời khấn không đối nghịch với việc có một người tình và một chiếc xe thể thao. Cách sống của chúng ta bao gồm một số nhu cầu tất yếu và khách quan, những nhu cầu đó rốt cục phải mời gọi tôi trải qua cuộc biến đổi bản thân tôi một cách sâu sắc. Nếu lẩn tránh việc đó, tôi sẽ không bao giờ trở thành một người anh em được.
Quan trọng hơn hết, những quan niệm khác nhau về việc trở thành một tu sĩ Đa Minh thực sự không bao giờ được chia rẽ chúng ta, bởi vì sự hiệp nhất của Dòng không nằm ở ranh giới ý thức hệ chung, cũng không hệ tại một linh đạo duy nhất. Nếu quả như thế, có lẽ Dòng chúng ta đã tan vỡ từ lâu rồi. Yếu tố giữ chúng ta lại với nhau, đó là một cách sống cho phép có sự đa dạng và uyển chuyển, một sứ vụ chung, và một thể thức quản trị cho mọi người quyền được phát biểu ý kiến của mình. Con sư tử Đa Minh và chú cừu Đa Minh vẫn có thể sống chung và vui vầy với nhau.
Vào thời sơ khai của Dòng, cuốn sách “Đời sống anh em” được viết ra để ghi lại kỷ niệm về thế hệ anh em đầu tiên. Chúng ta liên kết với nhau như một cộng đoàn bởi những câu chuyện của quá khứ cũng như bởi những giấc mơ trong tương lai. Những dấu chỉ hữu hình của căn tính Đa Minh có giá trị của nó, đồng thời nói lên được phần nào bản chất của chúng ta, nhưng đừng biến thành lá cờ trận của những bè phái khác nhau. Các tu sĩ Đa Minh, những người mà chúng ta trân trọng và không bao giờ quên, thường là những người bị cuốn hút trong nỗi đam mê giảng thuyết đến nỗi họ không có thời gian suy tư nhiều về căn tính của mình là tu sĩ Đa Minh. Anh Simon Tugwell đã viết: “xuyên suốt toàn bộ lịch sử, khi Dòng thành thực với chính mình nhất, đó là lúc Dòng ít quan tâm đến căn tính Đa Minh nhất.”[1]
Việc đào tạo phải thật sự đem lại cho chúng ta một căn tính Đa Minh mạnh mẽ, đồng thời dạy chúng ta về lịch sử và truyền thống của Dòng. Do đó chúng ta không thể cứ ngồi đó chiêm ngắm vinh quang của Dòng, rồi tự cho mình là quan trọng, nhưng chúng ta phải lên đường và cùng nhau bước theo một Chúa Kitô thanh bần và lữ hành. Một ý thức mạnh mẽ về căn tính Đa Minh sẽ giải thoát chúng ta khỏi suy nghĩ về chính mình quá nhiều, bằng không, chúng ta sẽ quá bận tâm nên không nghe thấy giọng nói hỏi chúng ta: “Bạn tìm ai?”
Như vậy, tình huynh đệ không dựa trên cái nhìn một chiều. Tình huynh đệ được xây dựng một cách cần mẫn, bằng việc học cách lắng nghe nhau, học cách trở nên mạnh mẽ và trở nên dòn mỏng, học cách trung tín với nhau và yêu thương anh em.
Nói và nghe
Chúng ta biết rằng chúng ta cảm thấy thoải mái khi chúng ta có thể dễ dàng trò chuyện với nhau, tin tưởng rằng ít là anh em sẽ cố gắng hiểu chúng ta. Có lẽ đây là điều chúng ta mong đợi khi chúng ta gia nhập Dòng. Chúa Giêsu nói với cô Maria Mađalêna: “Hãy đi đến với anh em của Thầy, nói với họ rằng Thầy lên cùng Chúa của Thầy, cũng là Chúa của anh em, lên cùng Cha Thầy, cũng là Cha của anh em.” Cô được giao nhiệm vụ chia sẻ niềm tin vào Chúa Phục Sinh, cho dù những người anh em của cô có thể coi cô là kẻ hoang tưởng. Như vậy, chúng ta xây dựng một ngôi nhà chung trong Dòng bằng cách dám chia sẻ những gì đã đưa chúng ta đến đây. Việc này nhiều khi rất khó. Có thể chúng ta mong ước có cùng quan điểm với mọi người, cùng những giấc mơ, cùng một cách thức suy nghĩ. Nhưng chúng ta khám phá ra rằngcó những anh em gia nhập Dòng với những tâm tư nguyện vọng và cái nhìn khác đến nỗi, cứ theo những điều họ nói, chúng ta cũng không nhận ra mình là ai nữa. Chúng ta ngần ngại khi phải bộc lộ những gì là quý giá nhất, tức là niềm tin mong manh của chúng ta, trước sự phê phán và xem xét của mọi người. Việc chia sẻ niềm tin đòi chúng ta chấp nhận một sự tổn thương rất lớn. Đôi khi chia sẻ với những người ngoài cộng đoàn lại có vẻ dễ dàng hơn.
Một trong những thách đố lớn đối với các vị phụ trách đào tạo là xây dựng sự tin tưởng để các bạn dám nói một cách thoải mái. Martin Buber viết: “Điều có tính chất quyết định là các bạn trẻ đã sẵn sàng để trò chuyện chưa. Nếu ai đó tin tưởng họ, tỏ cho họ biết rằng anh ta tin họ, khi ấy họ sẽ nói chuyện với anh ta. Điều cần thiết trước tiên là, thầy giáo phải khơi dậy nơi học trò điều giá trị nhất, đó là lòng tin tưởng chân thực”.[2] Cũng vậy, điều quan trọng là các bạn phải tin tưởng lẫn nhau. Thậm chí có lúc các bạn phải can đảm chia sẻ cả những nỗi hoài nghi của mình.
Văn hóa Tây phương hiện đại nuôi dưỡng sự hoài nghi một cách có hệ thống. Người ta dạy chúng ta là phải kiểm tra những gì người khác nói liên quan đến những điều không được công nhận, những điều không được tiết lộ, và cả những điều người ta vô tình nói ra nữa. Trong Hội thánh, có khi đây là hình thức săn lùng lỗi lầm, xét nét các lời tuyên bố để tìm ra lạc giáo. Người anh em này là một môn đệ trung thành của thánh Tôma hay của thần học giải phóng? Anh ta có phải là người của chúng ta hay không? Phát hiện ra một người anh em lầm lạc và phủ nhận giáo lý của Hội thánh, hoặc hệ tư tưởng của riêng tôi, còn dễ hơn là lắng nghe một ít sự thật mà anh ta có thể đang cố gắng chia sẻ với chúng ta. Thế nhưng kiểu hoài nghi như thế phá hoại mối dây huynh đệ. Sự hoài nghi ấy đến từ sự sợ hãi, và chỉ có tình yêu mới xua đuổi được sự sợ hãi.
Học biết lắng nghe nhau trong tình bác ái là kỷ luật của trí tuệ. Anh Benedict Ashley viết: “Phải có sự khắc kỷ mới trong trí tuệ, vì chẳng có gì đau khổ cho bằng duy trì lòng bác ái đang khi tranh cãi quyêt liệt về những vấn đề nghiêm trọng.”[3] Yêu thương anh em không chỉ là một cảm xúc ấm áp dễ chịu, nhưng còn là một kỷ luật thuộc lãnh vực tri thức. Tôi phải tự kiềm chế để khỏi kết án những gì anh em nói là vô nghĩa trước khi tôi nghe anh ta. Đó là sự khổ hạnh tinh thần để mở rộng tâm hồn đón nhận tri thức mới. Việc đó cũng có nghĩa là phải học cách thinh lặng, không chỉ trong lúc chờ người đó ngưng phát biểu, nhưng để có thể nghe được anh ta. Tôi phải biết dẹp những phản bác có tính biện bạch, hoặc vội vàng ngắt lời anh ta. Tôi phải thinh lặng và lắng nghe.
Học biết lắng nghe nhau trong tình bác ái là kỷ luật của trí tuệ.
Sự đối thoại làm nên một cộng đoàn gồm những người bình đẳng, và vì thế chúng ta phải xây dựng cộng đoàn gia đình Đa Minh bằng cách dành thời giờ để chuyện trò với các chị em và giáo dân Đa Minh, đồng thời khám phá ra nhiều điều thú vị. Sự đối thoại sẽ làm nên một gia đình của thánh Đa Minh và thánh nữ Catarina rộng lớn hơn. Sự đối thoại “đòi hỏi sự bình đẳng giữa các thành viên. Quả thực, đó là một trong những cách thức quan trọng nhất để thiết lập sự bình đẳng. Kẻ thù của đối thoại là những lời hoa mỹ, tranh biện, thuật ngữ chuyên môn, những kiểu nói riêng tư, hoặc nỗi thất vọng vì không được lắng nghe hay không được hiểu. Để phát triển, cần có sự giúp đỡ của người bảo mẫu thuộc cả hai phái… Chỉ khi nào biết đối thoại, người ta mới có thể bắt đầu trở nên bình đẳng.”[4] Một trong những thách đố đối với anh em chúng ta là để cho các chị em giúp chúng ta trở thành người giảng thuyết. Một nền đào tạo sâu sắc nhất luôn luôn có tính cách hỗ tương.
Trở nên mạnh mẽ và yếu đuối
Chúng ta thuộc về một nhà và cảm thấy thoải mái khi chúng ta mạnh mẽ hơn chúng ta tưởng, và yếu đuối hơn chúng ta dám chấp nhận. Đây không phải là những phẩm tính đối nghịch nhau, vì chúng là những dấu chỉ cho thấy chúng ta bắt đầu trở nên giống Chúa Kitô vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối.
Trước tiên chúng ta được đào tạo trở thành Kitô hữu. Trong truyền thống, điều đó có nghĩa là phải tăng trưởng các nhân đức hơn là chỉ giữ các giới răn và kiềm chế bản chất lăng loàn của con người. Trở nên đạo đức làm cho chúng ta mạnh mẽ, đơn sơ, tự do và có khả năng tự lập. Như anh Jean Luis-Bruguès, OP, đã viết: nhân đức là tập sự để trở thành con người. “Nhân đức là một quá trình tiến từ tình trạng tiềm ẩn đến tình trạng hoàn hảo.”[5]
Trở nên một người anh em có nghĩa là chúng ta tiếp nhận sức mạnh từ người khác. Chúng ta không phải là những nghệ sĩ độc diễn. Đó là sức mạnh làm cho chúng ta được tự do, tự do cùng với nhau chứ không phải là tự do tách lìa nhau. Trước hết, chúng ta trở nên mạnh mẽ vì chúng ta tin tưởng nơi người khác. Truyền thống ban đầu của chúng ta là sự tin tưởng vô tận của thánh Đa Minh đối với anh em. Ngài tin tưởng vào anh em vì ngài tin tưởng vào Thiên Chúa. Anh Gioan người Tây Ban Nha viết: “Ngài tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa nên đã sai bảy anh em còn non trẻ ra đi và nói rằng: ‘Đừng sợ, Chúa sẽ ở với anh em và Người sẽ đặt sức mạnh vào môi miệng anh em.’”[6] Vậy nhiệm vụ đầu tiên của vị phụ trách đào tạo là phải xây dựng được lòng tin tưởng và sự tự tin cho anh em. Nhưng đó cũng là trách nhiệm của mỗi người đối với nhau, vì thường thường những anh em thụ huấn là những người đào tạo nhau nhiều nhất. Các bạn có khả năng làm xói mòn anh em, đánh mất sự tự tin của người anh em và trêu tức họ. Và các bạn cũng có khả năng xây dựng cho họ, tiếp thêm sức mạnh cho họ, rèn luyện họ thành những nhà giảng thuyết mạnh mẽ của Thiên Chúa.
Hiến pháp chúng ta viết: “Huấn sinh là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc đào tạo của mình” (LCO số 156). Đừng đối xử với nhau như những trẻ em, không có khả năng quyết định cho chính mình. Chúng ta lớn lên thành anh em với nhau – những thành viên bình đẳng trong cộng đoàn – nhờ được đối xử như những người trưởng thành. Thời thánh Đa Minh, không có dấu hiệu nào cho thấy trong đan viện có người chuyên đi lòng vòng, rình mò, xem ai nấy có làm công việc bổn phận hay không. Nhưng đây là một trách nhiệm mà chúng ta không thể thực thi một mình được. Nếu chúng ta là anh em, chúng ta phải giúp đỡ nhau tự do suy nghĩ, phát biểu, tin tưởng, chấp nhận rủi ro và lướt thắng sợ hãi. Chúng ta cũng phải dám thách đố nhau.
“Huấn sinh là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc đào tạo của mình” (LCO số 156)
Khi lớn lên như những người anh em, chúng ta mới đủ vững vàng để đối mặt với những yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước tiên, đây là điều mà một người bạn của tôi gọi là “sự khôn ngoan của các thụ tạo.”[7] Phải hiểu rằng chúng ta là thụ tạo, sự hiện hữu của chúng ta là một món quà, chúng ta phải là những người bất tử, nhưng sống giữa sự sống và sự chết. Thực tế, chúng ta không phải là thần linh. Chúng ta đang đứng trên đôi chân, nhưng đôi chân này cũng là hồng ân. Chúng ta cũng sẽ nhận ra rằng chúng ta đã không hiệp đoàn với các thánh, nhưng chúng ta là một nhóm những người nam nữ yếu đuối, thiếu cương quyết, phải luôn luôn đứng dậy sau những lần sa ngã. Tôi đã viết ở một nơi khác rằng điều này có thể là một giai đoạn khủng khoảng trong việc đào tạo anh em.[8] Những thần tượng mà người tập sinh yêu mến và ngưỡng mộ hóa ra lại… có đôi chân bằng đất sét. Nhưng chuyện này vẫn luôn luôn xảy ra. Đó là lý do tại sao chúng ta có bổn mạng Dòng là thánh nữ Maria Mađalêna, người mà truyền thống cho là một phụ nữ yếu đuối và tội lỗi, nhưng lại là người được mời gọi để trở thành nhà giảng thuyết Tin mừng đầu tiên.
“Họ muốn được sống giữa các vị thánh, bằng cách loại trừ tất cả những người xấu và những người bất toàn. Rồi khi không được như ý, họ bỏ ơn gọi và lên đường… nhưng nếu muốn thoát khỏi những con người xấu xa, anh phải rời bỏ thế giới này.” (Anh Savonarola cảnh báo một tập sinh mang tư tưởng “thanh lọc cộng đoàn”)
Hơn 500 năm về trước, anh Savonarola viết thư cho một tập sinh, tập sinh này thực sự cảm thấy gương mù bởi tội lỗi của những người anh em. Anh Savonarola cảnh báo tập sinh đó về những người khi gia nhập Dòng đã nuôi hy vọng là được vào thiên đường ngay lập tức. Họ không bao giờ ở lâu được. “Họ muốn được sống giữa các vị thánh, bằng cách loại trừ tất cả những người xấu và những người bất toàn. Rồi khi không được như ý, họ bỏ ơn gọi và lên đường… nhưng nếu muốn thoát khỏi những con người xấu xa, anh phải rời bỏ thế giới này.”[9] Cuộc đối đầu với sự dòn mỏng của con người thường là khoảnh khắc tuyệt vời trong tiến trình giúp ơn gọi trưởng thành. Đó là khi chúng ta khám phá ra rằng chúng ta có khả năng cho và nhận lãnh lòng thương xót mà chúng ta xin khi nhập Dòng. Làm được điều đó là chúng ta đang tiến bước trên con đường trở thành một người anh em và một người giảng thuyết. Một trong những nỗi sợ hãi ngăn cản chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót là nếu anh em thấy con người thực của chúng ta thì có thể họ sẽ không bỏ phiếu cho chúng ta được tuyên khấn. Chúng ta có thể bị cám dỗ giấu giếm bộ mặt thật của mình cho tới khi chúng ta được an toàn, và được yên ổn trong Dòng, được tuyên khấn, chịu chức và không ai làm gì được nữa. Chấp nhận điều đó có thể là coi việc đào tạo như một sự lừa dối. Đào tạo trở thành việc huấn luyện trong sự che đậy, như thế chỉ là ngụy tạo một Dòng có khẩu hiệu là Chân lý. Chúng ta phải tin vào anh em đủ để họ thấy chúng ta là ai và chúng ta đang suy nghĩ gì. Không có sự trong sáng ấy thì không có tình huynh đệ. Như thế không có nghĩa là chúng ta phải đứng lên ở giữa nhà cơm mà thú tội, nhưng là đừng mang mặt nạ, đừng giấu mặt. Chúng ta phải dám chấp nhận sự tổn thương vì chính Chúa Kitô đã làm gương trước cho chúng ta. Việc đó giúp cho lời giảng trở nên đáng tin và chân thật.
Trung thành và yêu thương anh em
Cuối cùng, tình huynh đệ có một đặc tính khó nắm bắt và khó lý giải, mà tôi gọi là lòng trung thành, theo như anh Pegu nói, đó là “lời tuyệt vời nhất”. Lòng trung thành của Thiên Chúa là trọng tâm lời rao giảng của chúng ta. Thiên Chúa đã ban lời Người cho chúng ta và Lời đã làm người. Đó là lời mà chúng ta có thể tin tưởng, lời đã tạo nên trong lịch sử loài người một câu chuyện có chủ đích, chứ không phải chỉ là những biến cố tình cờ kế tiếp nhau. Đó là lời mạnh mẽ và vững chắc của Đấng đã nói “Ta là Đấng hiện hữu”. Đó là niềm tín trung mà chúng ta phải tìm kiếm để diễn tả đời sống của mình. Đôi bạn sống đời hôn nhân là một dấu chỉ lòng trung thành của Thiên Chúa, Đấng đã dứt khoát nối kết chính Người với chúng ta trong Chúa Kitô. Trung thành với nhau cũng là một phần trong công việc rao giảng Tin mừng của chúng ta.
Như vậy nghĩa là gì? Trước hết, đó là trung thành trong lời cam kết đối với Dòng. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Lời mặc xác phàm của Người, cho dù việc ấy đã đưa đến một cái chết vô nghĩa. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa lời của chúng ta, ngay cả khi lời hứa của chúng ta có thể đòi hỏi chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta có thể thực hiện được. Tôi nhớ, khi còn là Giám tỉnh, tôi chuyện trò với một anh em cao tuổi đến nói với tôi rằng anh sắp chết vì bệnh ung thư. Đó là một người dễ mến, tốt lành, trước đây đã từng sống những giây phút khó khăn và bất ổn trong đời sống Đa Minh. Anh ấy nói với tôi: “Dường như tôi sắp hoàn thành ước vọng của tôi là được chết trong Dòng.” Có thể đó chỉ là một ước vọng nhỏ, nhưng là một ước vọng thiết yếu. Người anh em này đã trao dâng lời và sự sống của anh cho Dòng. Anh vui mừng vì, bất chấp tất cả, anh đã không lấy lại món quà này.
Kế đến, phải dành ưu tiên cho sứ mạng chung hơn là kế hoạch riêng tư. Tôi có những tài năng, sở thích và ước mơ, nhưng tôi đã trao tặng chính bản thân tôi cho việc rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chung này có thể đòi hỏi tôi chấp nhận những trách vụ ngoài ý muốn trong một thời gian vì lý do công ích, như quản lý, giám sư học viện hoặc tập viện. Một chiếc xe khách có thể giống như một căn phòng chung. Trong căn phòng này đầy người, họ đang chuyện trò, đọc sách, chia sẻ một khoảng không gian chung. Nhưng khi xe khách rẽ sang một con đường khác với con đường của tôi, tôi sẽ xuống xe và đi tiếp lộ trình riêng của mình. Phải chăng tôi coi Dòng như một chiếc xe khách, và chỉ ở trong Dòng bao lâu nó chở tôi đi theo hướng tôi muốn đi?
Lòng trung thành có nghĩa là tôi phải bênh vực anh em vì thanh danh của họ cũng là thanh danh của tôi. Hiến pháp thời sơ khai, và cho tới gần đây, quy định một trong những nhiệm vụ của vị giám sư tập sinh là phải dạy cho họ biết “nghĩ tốt cho người khác.”[10] Phải luôn luôn cắt nghĩa tốt nhất cho những gì mà người của anh em mình nói hoặc làm. Nếu như có anh em thường về nhà lúc đã khuya, thì thay vì tưởng tượng một điều tội lỗi gì ghê gớm, hãy giả dụ là anh ta đi thăm bệnh nhân về. Anh Savonarola viết cho người tập sinh hay xét đoán đó rằng: “Nếu anh thấy có điều gì mà anh không hài lòng, hãy cứ nghĩ anh em đã làm điều đó với ý tốt. Trong anh em, có nhiều người còn tốt hơn là anh nghĩ.” Như vậy còn hơn là sự lạc quan của những người đạo đức nữa. Đó là một tình yêu biết nhìn thế giới với đôi mắt của Thiên Chúa, thấy thế giới này là tốt đẹp. Có lần chị Catarina viết cho cha Raymunđô Capua, xin cha hãy tin vào tình yêu của chị dành cho cha. Khi chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta thường nghĩ tốt về những việc họ làm, tin tưởng rằng họ luôn luôn tìm kiếm điều thiện hảo cho chúng ta: “Ngoài tình yêu thông thường, còn có một tình yêu đặc biệt, tình yêu này bộc lộ chính mình trong lòng tin. Và nó bộc lộ chính mình đến nỗi nó không thể nào tin hay tưởng tượng được rằng người ta lại có thể muốn điều gì khác ngoài sự thiện hảo của chúng ta.”[11] Nếu người anh em của tôi bị kết án là xấu xa, hoặc không tuân thủ truyền thống, thì lòng trung thành có nghĩa là tôi sẽ làm mọi sự trong khả năng để ủng hộ anh ta, và đưa ra một lý giải tốt nhất cho quan điểm và hành động của anh ta. Chính vì lòng trung thành hỗ tương này mà lời mở đầu Hiến pháp năm 1228 đã quy định: không ai được nại đến quyền bính ngoài Dòng để chống lại những quyết định trong Dòng; điều luật này được coi là “bất khả xâm phạm và không bao giờ được thay đổi.” Vì vậy, hầu như không tưởng tượng được một anh em lại có thể công khai tố cáo anh em khác và cô lập người anh em đó.
Lòng trung thành này hàm ý rằng tôi sẽ không chỉ ủng hộ người anh em của tôi, mà còn đương đầu với anh ta nữa. Nếu anh ta là anh em của tôi, tôi phải quan tâm đến những gì anh ta đang suy nghĩ và dám bất đồng quan điểm với anh ta. Tôi không thể để chuyện đó cho bề trên, như thể chuyện đó không phải là trách nhiệm của tôi. Nhưng tôi làm điều đó trước mặt anh ta chứ không phải sau lưng. Chúng ta sợ làm điều này vì ngại sẽ đưa đến thù nghịch hay khước từ. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, nếu người anh em thấy rõ chúng ta nói ra là do lòng yêu mến chân lý và yêu mến anh em, thì việc này luôn luôn dẫn tới một sự hiểu biết và tình bạn sắt son.
Vì thế, đây là một vài yếu tố trong việc trở thành một người anh em, đó là biết trao đổi và lắng nghe người khác, học biết điểm mạnh lẫn điểm yếu của nhau; và lớn lên trong sự tin tưởng lẫn nhau. Tất cả những điều này phụ thuộc vào một điều cơ bản nhất, là học cách yêu thương anh em. Là những tu sĩ Đa Minh thường cư xử với nhau một cách mạnh mẽ, chúng có thể e dè khi dùng cách nói tình cảm như vậy. Kiểu cách ấy có vẻ ngọt ngào và uỷ mị. Tuy vậy, nó vẫn là nền tảng tối hậu của tình huynh đệ. Đây là điều chúng ta phải làm vì Đấng đã kêu gọi chúng ta: “Đây là điều răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con” (Ga 16,12). Đó là giới răn cơ bản trong niềm tin của chúng ta. Vâng phục niềm tin ấy sẽ đào luyện chúng ta trở thành Kitô hữu và trở thành người anh em. Thánh Đa Minh nói ngài học được “trong cuốn sách về lòng bác ái hơn là trong sách vở của con người.”[12] Điều đó có nghĩa là sau cùng ta nhìn thấy nhau như là món quà của Thiên Chúa. Anh em, chị em của tôi có thể làm cho tôi bực mình; tôi có thể hoàn toàn chống lại quan điểm của họ, nhưng tôi vui sướng nơi họ và nhìn thấy điều tốt lành nơi họ.
Đây là một vài yếu tố trong việc trở thành một người anh em, đó là biết trao đổi và lắng nghe người khác, học biết điểm mạnh lẫn điểm yếu của nhau; và lớn lên trong sự tin tưởng lẫn nhau.
Có một mối tương quan cơ bản giữa tình yêu và ơn gọi. Mối tương quan ấy đã đưa nhiều bạn đến với chúng tôi. Chúa Giêsu nhìn anh thanh niên giàu có và mến thương anh. Chúa mời gọi anh theo Chúa, giống như lúc Chúa nhìn cô Maria Mađalêna và gọi tên cô. Anh Stephanô người Tây Ban Nha nói với chúng tôi rằng, khi anh đến xưng tội với cha thánh Đa Minh, “cha nhìn tôi một cách trìu mến.”[13] Rồi tối hôm đó, thánh Đa Minh gọi anh đến và trao áo Dòng cho anh. Như tôn sư Eckhart nói, tình yêu giống như lưỡi câu của người ngư phủ, khi bắt được cá rồi thì cá không thể nào thoát được. Tôi phải thú nhận rằng, tôi quyết định gia nhập Dòng trước khi tôi gặp được một tu sĩ Đa Minh; tôi bị lôi cuốn bởi lý tưởng mà tôi đã đọc thấy trong sách. Có lẽ đó cũng là một phúc lành.
Tình yêu này không có màu sắc tình cảm ủy mị. Nhiều khi chúng ta phải cố gắng vất vả để đạt tới nó, chiến đấu để khắc phục thành kiến và sự dị biệt. Đó là lao nhọc để trở nên một người anh em. Tôi nhớ một dạo, có một người anh em mà tôi thấy rất khó sống. Bất cứ điều gì anh ta làm hay nói đều khiến người khác bực bội. Một buổi tối, chúng tôi rủ nhau ra một quán rượu, một giải pháp theo phong cách người Anh. Chúng tôi nói chuyện hàng giờ, trao đổi với nhau quãng đời thơ ấu và những vất vả. Lần đầu tiên tôi nhìn vào mắt anh và nhìn thấy chính tôi như thể anh nhìn thấy tôi. Tôi đã hiểu. Và đó là khởi điểm của tình bằng hữu và huynh đệ.
[1] Simon Tugwell, ‘Dominican Spirituality’, trong Compendium of Spirituality, ed. E De Cea, OP, New York 1996, 114.
[2] Encounter with Martin Buber, Aubrey Hodes, London 1972, 217.
[3] The Dominicans, Collegeville, 1990, 236.
[4] Theodore Zeldon, An Intimate History of Humanity, London 1994, 49.
[5] Les idées heureuses, Paris 1996, 24.
[6] Hồ sơ phong thánh ở Bologna 26.
[7] Rowan Williams, Open for Judgement, London 1994, 248.
[8] x. Lời hứa ban sự sống.
[9] Thư gửi Stefano di Codiponte 22-5-1492.
[10] S. Tugwell, sđd., 145.
[11] Mary O’Driscoll, OP, Catherine of Siena: Passion for Truth, Compassion for Humanity, New City 1993, 48.
[12] Gerald de Frachet 82.
[13] Chứng từ của anh Stephanô người Tây Ban Nha trong hồ sơ phong thánh cho cha Đa Minh.