Không bao giờ cha Đa Minh nghỉ ngơi mà trước đó không dành thời giờ để cầu nguyện, và thường là với những tiếng rên xiết, thở dài và mạnh, đến nỗi nhiều lần gây tiếng động làm anh em thức giấc… Thật vậy, cha thánh dành nhiều giờ để cầu nguyện hơn là nghỉ ngơi… Ngài hạn chế những lời nói vô ích và luôn nói với Thiên Chúa hay về Thiên Chúa (VIE tr. 44, chứng từ của anh Guillaume de Montferrat, trong án phong thánh tại Bologna).
- Cha Đa Minh cúi mình trước thánh giá – Thái độ cung kính thờ lạy.
Tất cả những ai sống với cha Đa Minh, tất cả những ai tiếp xúc với thánh nhân, dù gần hay xa, tất cả những nhân chứng được hỏi trong án phong thánh, hết thảy đều nhấn mạnh đến cường độ lời cầu nguyện của cha Đa Minh. Cha Đa Minh cầu nguyện như là hít thở. Cha không thuộc vào số những người dùng thời giờ để viết sách, ngay cả những sách về cầu nguyện. Cha cầu nguyện. Cha dành phần lớn thời giờ để cầu nguyện. Cha đi vào việc cầu nguyện cách tự nhiên và dễ dàng hơn nhiều người đi vào giấc ngủ. Thiếp ngủ tự nhiên là một ân huệ của tuổi niên thiếu. Cha Đa Minh là một trẻ em theo Tin Mừng, một đứa trẻ đắm mình trong cầu nguyện khi có thời giờ. Và điều ấy xảy ra đặc biệt vào ban đêm. Với ngài, ban đêm là giờ cầu nguyện.
- Cha Đa Minh nằm phục xuống đất – Thái độ tạ tội.
Ngay từ khi là một tu sĩ trẻ, cha Đa Minh đã tỏ ra là một người chuyên tâm cầu nguyện.
Như cây ôliu trổ sinh hoa trái hay như cây hương nam vút lên trời, thánh nhân ngày đêm sử dụng mảnh đất là nhà thờ, để không ngừng cầu nguyện và tận dụng thời gian để suy niệm, đến nỗi không ra khỏi khuôn viên tu viện. Thiên Chúa đã ban cho thánh nhân một ân sủng đặc biệt là cầu nguyện cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, và những kẻ muộn phiền : thánh nhân đem những nỗi khổ đau của họ vào trong nơi sâu thẳm thánh thiêng là lòng thương cảm của mình ; và những dòng lệ nóng hổi tuôn trào từ đôi mắt chứng tỏ lòng nhiệt thành đang thiêu đốt tâm hồn ngài. Thánh nhân có thói quen qua đêm bằng cầu nguyện. Cửa đóng lại, và ngài cầu nguyện với Chúa Cha. Vào cuối những lời kinh, ngài có thói quen thốt ra những tiếng rên, những tiếng thổn thức từ tâm hồn. Ngài không thể cầm giữ lại, và những tiếng kêu này, phát ra cách tự nhiên, có thể nghe được rõ ràng từ trên cao (LIB s. 12).
- Cha Đa Minh bày tỏ lòng thống hối và làm việc đền tội.
Như ngọn đèn trong đêm, cha Đa Minh thực hiện lệnh truyền của Chúa : Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn (Lc 21,36). Cha không chỉ cầu nguyện bằng miệng. Trọn vẹn con người của cha trở nên lời cầu nguyện, cha cầu nguyện với cả thể xác và tâm hồn. Cha bừng cháy vì Chúa của mình. Cha cháy lửa yêu mến Chúa. Với cha Đa Minh, cầu nguyện là đáp trả một thúc bách, không phải là chuyện mất thời gian. Điều mất đi, đó là các linh hồn. Đó là những người lâm cảnh muộn phiền, có nguy cơ tuyệt vọng. Cần phải can thiệp ngay !
Nơi cha Đa Minh điều gây cảm động là sự vận dụng toàn bộ con người vào việc cầu nguyện. Ngài không chỉ cầu nguyện bằng lý trí hay bằng trái tim. Ngài cầu nguyện với cả đôi tay, cánh tay, lưng, đôi chân và bàn chân. Dù là tâm nguyện, nhưng lời cầu nguyện của ngài cũng không thiếu các cử chỉ.
- Cha Đa Minh bái gối (và đứng lên) nhiều lần, đôi mắt hướng về thập giá.
Và hơn thế, những dòng lệ tuôn trào từ đôi mắt ngài. Chúng diễn tả cách cụ thể mối hiệp thông sâu xa với nỗi niềm của những người khổ đau. Đó không phải là những giọt nước mắt tình cờ, do hoàn cảnh gây xúc động trong chốc lát. Đó là những dòng lệ thường xuyên, vì thánh nhân luôn có trong mắt mình cuộc khổ nạn của Chúa Cứu Thế cũng như cuộc khổ nạn của những người đương thời.
Tại ngôi trường của thánh Đa Minh, người ta học cầu nguyện với tất cả con người của mình. Để có thể noi gương bắt chước ngài, trước tiên cần phải quan sát ngài, như chị Cecilia đã không ngừng nhìn ngắm thầy của mình cầu nguyện. Nội dung lời cầu nguyện của ngài được diễn tả qua các hành động. Chúng nói lên tất cả. Dưới đây là một vài cử chỉ chính yếu.
- Cha Đa Minh đứng thẳng người, với cử động xích lại gần bàn thờ. Hai bàn tay cha khi mở ra, khi úp lại, khi mở rộng ra như đang tâm sự với Chúa Giêsu.
Để thật sự hiện diện trước Đấng ta muốn ngỏ lời, trước hết phải phủ phục trong đức tin. Vì thế, thánh Đa Minh cầu nguyện bằng cách khiêm tốn sấp mình trước bàn thờ, như thể là chính Chúa Giêsu Kitô, được tượng trưng bởi bàn thờ, đang đích thân hiện diện thật sự (Hình 1).
Để diễn tả thái độ khiêm nhường, điều xứng hợp duy nhất đối với người ý thức về sự bất xứng của mình, đó là trở nên một với bùn đất – l’humus – và phủ phục thân mình cùng với tất cả con người mình. Cha Đa Minh thường cầu nguyện, mặt úp xuống đất (Hình 2).
Vì việc cầu nguyện Kitô giáo trước tiên là noi gương Chúa Kitô cầu nguyện, và vì việc cầu nguyện của Chúa Giêsu Kitô đạt tới mức hoàn hảo trên thập giá, nên người Kitô hữu hiểu rằng cần phải đi qua thập giá mới bước vào việc cầu nguyện thật sự. Chiêm ngắm thập giá, ôm lấy thập giá, nép mình vào thập giá, như Fra Angelico thường vẽ thánh Đa Minh, đó là kéo dài hy tế của thánh lễ, là đi vào chính việc cầu nguyện của Chúa Giêsu. Vì vậy, cha Đa Minh đặc biệt ưa thích chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh. Ngài dành cho thánh giá lòng tôn kính đặc biệt. Ngài thường bái gối trước thánh giá.
- Cha Đa Minh bắt chước cử điệu Chúa Giêsu giang tay trên thập giá.
Trong tất cả các tư thế cầu nguyện, tư thế gây tác động hơn cả là tư thế đứng. Công đồng chung đầu tiên, – Công đồng Nicea năm 325, truyền dạy các tín hữu của Đức Kitô Phục Sinh phải đứng khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể, để chứng tỏ mình là những người đã phục sinh. Cha Đa Minh thích đứng cầu nguyện. Ngài đứng đó, đôi tay mở ra như dấu chỉ dâng hiến, như người lãnh nhận mọi sự, như người kín múc từ cạnh sườn Đức Giêsu dòng nước cần thiết để sống.
Khi ở tu viện, cha Đa Minh thường đứng trước bàn thờ, đứng thẳng trên đôi chân, không dựa vào đâu cả, đôi tay mở ra trước ngực như một cuốn sách đang mở (Hình 5).
- Cha Đa Minh vươn hai cánh tay lên trời cao để khẩn khoản, van nài.
Để nên một với Chúa Cứu Thế hiến mình trên thập giá, cha Đa Minh quý chuộng đặc biệt hình thức cầu nguyện, tay dang ra theo hình thánh giá. Không có chứng cứ nào nói đến việc ngài được ghi các dấu thánh, như vị thánh cùng thời là Phanxicô. Ngài cũng không xin điều này. Nhưng ngài muốn chu toàn lời mời gọi của Chúa là mang lấy thập giá để xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa. Nhiều lần khác người ta thấy cha Đa Minh cầu nguyện, hai tay dang thẳng ra theo hình thánh giá, thân thẳng đứng, bao nhiêu có thể (Hình 6).
Và cũng với tư thế đứng, cha Đa Minh thể hiện hình ảnh như một mũi tên trên cánh cung. Ngài hướng về Chúa, ngài vươn mình, hay đúng hơn ngài để mình hướng về Chúa nhờ sức mạnh của Thánh Thần, Đấng hiện diện nơi chúng ta như động lực mạnh mẽ của việc cầu nguyện.
Người ta thường thấy cha hướng toàn thân về trời, theo cách thức một mũi tên trên cánh cung hướng thẳng vào không gian. Ngài giơ thẳng tay vươn cao khỏi đầu, đôi bàn tay nắm lấy nhau hay hé mở như là để lãnh nhận điều gì đó từ trời (Hình 7).
- Cha Minh kết hợp việc học hỏi với cầu nguyện.
Thánh Đa Minh đắm mình trong cầu nguyện, như được đặt trong một cái nồi chưng cất, để được gạn lọc, được sáng ngời, được biến đổi mọi ý nghĩa, mọi dự phóng hầu trở thành một của lễ hoàn hảo. Không phải là thánh nhân cầu nguyện với thân xác, nhưng chính thân xác trở thành lời cầu nguyện. Ngài diễn tả tuyệt vời điều thánh Phaolô đã viết : “Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, chúng ta cũng rên xiết trong lòng, đang khi chờ đợi Thiên Chúa cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8,23). Những tiếng rên xiết của cha Đa Minh khi cầu nguyện, những tư thế khác nhau của thân thể, và cả việc cầu nguyện lúc đêm khuya, tất cả minh chứng sự biến đổi do việc cầu nguyện nơi ngài.
Cha Đa Minh không cầu nguyện cho mình. Như Đức Kitô, cha cầu nguyện cho người khác. Cha để Chúa khởi sự nơi mình việc tái tạo các thụ tạo, như Chúa muốn về thế giới : “Muôn loài thụ tạo cùng rên xiết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22).
- Cha Đa Minh cầu nguyện cùng với anh em khi đi đường.
Nét độc đáo trong việc cầu nguyện của cha Đa Minh ở chỗ đó. Lời cầu nguyện của ngài có tính tích cực, lời giảng của ngài cũng thế. Vì lời cầu nguyện không khác lời giảng. Lời cầu nguyện là hình ảnh của lời giảng lúc đêm khuya. Ban ngày, người gieo giống đi gieo hạt ; ban đêm, Chúa làm cho hạt giống lớn lên. Ban ngày, cha Đa Minh hiến mình cho người khác qua việc giảng thuyết, và ban đêm ngài hiến mình cho Thiên Chúa qua việc cầu nguyện. Việc này không thể tách rời khỏi việc kia, tương tự như việc nắn tượng và đưa vào lò nung. Chỉ có một công việc, một mục đích phát xuất từ cùng một mối bận tâm, đó là ơn cứu độ các linh hồn.