Vào giữa thế kỷ XIV, tại Valencia nước Tây Ban Nha, có một cặp vợ chồng đạo hạnh, nổi nang đặc biệt không phải về gia cảnh nhưng là đời sống nhân đức. Đó là ông Guilêmô Phêriê, hậu duệ của một gia tộc Catalan cổ xưa, và bà Contanda Mighen, ái nữ của một sĩ quan hải quân và là bà con với Giám mục Valencia. Đã được chúc phúc với hai đứa con đầu, giờ đây họ tiếp tục đón nhận phúc lành vào ngày 23 tháng Giêng năm 1350 khi đứa con thứ ba chào đời.
Các sử liệu khẳng định rằng đã có một số dấu hiệu khác thường tiên đoán về việc hạ sinh đứa con thứ ba này. Vào một đêm khi người cha nằm ngủ, trong giấc mơ, ông thấy mình bước vào một thánh đường của Dòng Đa Minh tại Valencia, trong lúc một vị giảng thuyết đang giảng cho cộng đoàn. Bấy giờ vị ấy quay về phía ông và nói với ông: “Tôi xin chúc mừng ông, ông Guilêmô ạ. Trong ít ngày nữa thôi ông sẽ có một người con trai, sau này cháu sẽ trở thành một người kiệt xuất về tài năng và đức độ. Cháu sẽ đem hạnh phúc và vinh dự đến cho gia đình ông. Tiếng tăm về những công việc kỳ diệu cháu làm sẽ vang vọng khắp cả trần gian này; cháu sẽ mang đến cho Thiên Đàng niềm vui và đổ đầy sự kinh hoàng vào Hỏa Ngục. Cháu sẽ mang tu phục mà tôi đang mặc, và sẽ được toàn thể Giáo hội vui mừng đón nhận như là một trong những vị Tông đồ trong Giáo hội sơ khai.” Rồi dường như ông thấy các thính giả lớn tiếng tạ ơn Thiên Chúa về thông tin lạ lùng họ vừa nghe được, và họ chúc mừng ông. Vui sướng với những lời tiên đoán đầy an ủi đó, ông cũng hòa với cộng đoàn dâng lời tạ ơn. Khi tỉnh giấc, ông kể cho vợ mình tất cả những gì đã xảy ra trong giấc mơ, và họ quyết định hỏi ý kiến vị Giám mục bà con của họ. Bà Contanda còn thêm hai điều tương tự vào lời kể của ông Guilêmô mà bà đã từng trải qua. Thứ nhất, kể từ lúc bà mang thai, bà chưa từng trải qua một cơn đau đớn nào, như vẫn thường xảy ra trong giai đoạn này; và thứ hai, khi đứa trẻ sắp chào đời, bà thường nghe thấy tiếng khóc, giống như tiếng kêu của chú cún con – trường hợp này rất giống thị kiến của chân phước Gioanna Ada, thân mẫu thánh Đa Minh.
Vị Giám mục hiểu rất rõ ý nghĩa của những dấu chỉ kỳ diệu này và ngài nói với hai vợ chồng: “Hãy vui mừng trong Chúa; đứa trẻ mà hai người sắp mang đến cho thế giới này sẽ xứng đáng là một người con của thánh Đa Minh, và cháu sẽ được mời gọi để thi hành điều tốt lành qua việc giảng thuyết cho mọi người. Hãy chăm sóc cháu cẩn thận và giáo dục cháu trong sự thánh thiện, nhờ đó cháu có thể trở nên xứng đáng với những đặc ân mà Thiên Chúa phú ban cho cháu.”
Như để xác nhận suy nghĩ tốt lành về đứa trẻ, ngay khi còn trong lòng mẹ, Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu qua em. Ngày nọ, bà Contanda đi thăm một người phụ nữ bị mù, người mà hằng tháng vẫn được bà bố thí, và khi bà Contanda trao của bố thí như vẫn thường làm, bà nói: “Này bà, xin hãy cầu cùng Thiên Chúa để chúng tôi được mẹ tròn con vuông.” Người đàn bà mù cúi đầu xuống ngực bà Contanda và nói: “Xin Chúa ban cho bà điều bà mong ước!” Ngay lúc đó, người đàn bà được sáng mắt, và đột nhiên lòng bà được soi sáng bằng ánh sáng tiên tri, bà kêu lên: “Thưa bà, đứa trẻ mà bà đang cưu mang là một thiên thần, chính cháu đã cứu chữa tôi khỏi nỗi ưu phiền bấy lâu nay.” Em bé, như một Gioan Tẩy Giả khác, đã tán thưởng những lời người đàn bà nghèo khổ vừa thốt lên bằng việc nhảy lên trong dạ mẹ; chính người mẹ đã làm chứng về điều này.
Những dấu lạ đó đã xảy ra trước khi thánh Vinh Sơn Phêriê chào đời. Thánh nhân ra đời là một sự kiện cho cả thành phố. Toàn cư dân trong thành đã quyết định tham gia đoàn rước đưa trẻ Vinh Sơn đến giếng rửa tội. Ngoài vị đại diện của thành phố, còn có sự hiện diện của ba vị quan tòa; và khi mọi người chưa thống nhất được tên gọi sẽ đặt cho cháu bé, thì vị linh mục chủ sự được thần hứng liền đặt tên cho em là Vinh Sơn, một cái tên phù hợp với vận mệnh tương lai của cậu bé, bởi vì một ngày nào đó em sẽ mạnh mẽ tấn công tội lỗi, thế gian, xác thịt, ma quỷ cũng như chiến thắng chúng trong vinh quang.
Bà Contanda không đồng ý giao phó con trai của bà cho bất kỳ bảo mẫu xa lạ nào chăm sóc. Con trẻ này quá quý giá đến nỗi ngoài bà ra, không một ai được diễm phúc chăm sóc em khi còn thơ bé. Việc chăm sóc này quả thật là mỏi mệt, nhưng với tâm hồn người mẹ, thì nó luôn ngọt ngào. Về phần bà, sự tận tụy ấy được đền đáp dồi dào, vì vị thánh bé nhỏ chẳng gây cho bà chút phiền hà nào. Hiếm khi Vinh Sơn khóc, và dù bà đặt em nằm ở đâu, em vẫn luôn yên lặng. Dù không ngủ, Vinh Sơn vẫn giữ vẻ yên tĩnh và trông như đang nhớ lại điều gì đó. Đôi mắt mở lớn tìm mẹ nhưng chẳng khóc một tiếng nào. Người mẹ sử dụng hết mọi khả năng Chúa ban để chăm sóc con mình. Ngoài tính tình đáng yêu được thừa hưởng từ thân mẫu, Vinh Sơn còn có khuôn mặt xinh xắn, dịu dàng và dễ thương, đến nỗi ai cũng muốn nhìn chăm chăm và vuốt ve.
Một sự kiện lạ lùng xảy ra làm cho tiếng tăm của em tăng lên không ít. Lúc Vinh Sơn vẫn còn nằm nôi và vừa chỉ mới biết bập bẹ, thành Valencia phải điêu đứng vì một cơn hạn hán kéo dài. Biết bao nhiêu lời cầu nguyện dâng lên để cầu xin một cơn mưa cho thành phố dịu lại, nhưng ngay cả một đám mây cũng chẳng thấy xuất hiện trên bầu trời. Toàn dân kêu than trong cơn thiên tai, bà Contanda cùng chia sẻ với mọi người hoạn nạn ấy. Một ngày nọ bà nghe đứa trẻ đang quấn tã rành mạch thốt lên: “Nếu mẹ muốn có mưa, hãy đem con theo đoàn rước, và mẹ sẽ được nhậm lời.” Vui mừng và ngạc nhiên trước những lời lạ lùng đó, bà Contanda háo hức đến báo tin cho các vị quan tòa thành phố. Các vị quan tòa, một mặt nhìn nhận sự trung thực và chân tình của người mẹ, mặt khác họ cân nhắc những dấu hiệu lạ kỳ mà đứa trẻ đã làm cho dân thành phải quan tâm, rồi cũng nói chiếu lệ rằng sẽ có một cuộc rước như đã được tiên báo. Vinh Sơn được ẵm đi trong hân hoan, và khi đoàn rước vừa kết thúc thì bầu trời đột nhiên xám lại, trận mưa như trút nước trong nhiều giờ liền đổ xuống mặt đất khô cằn. Sự kiện lạ lùng này và nhiều việc khác nữa đã làm cho danh tiếng của Vinh Sơn vang đến tận triều đình vua Aragon. Nữ hoàng Eleanor, khi đến Valencia, đã ra lệnh đưa em về cung điện để bà có thể ngắm nhìn và vuốt ve.
Khi học nói, em cũng học cầu nguyện và đặc biệt được hướng dẫn đi vào các mầu nhiệm đức tin. Những chỉ dẫn này đã khắc sâu vào tâm hồn em như khắc lên sáp ong mềm, nhưng một khi đã bén rễ, những lời dạy đó sẽ vững vàng như khắc lên đồng. Về giáo lý, chỉ cần dạy một lần là em nhớ mãi, không phải đợi đến lần thứ hai. Hạt giống thánh thiêng này đã nảy sinh trong tâm hồn em hoa trái của ơn cứu độ. Được thấm nhuần lòng kính sợ Thiên Chúa trên hết mọi sự và tràn đầy sức sống với niềm khát khao điều thiện hảo, em đã cẩn thận tránh mọi điều có thể làm vấy bẩn tâm hồn trong trắng của mình, kể cả những điều nhỏ nhất.
Từ lúc năm tuổi, Vinh Sơn đã tỏ ra là một cậu bé thông minh trổi vượt so với độ tuổi của mình, điều này làm cho bạn bè và những người khác đặc biệt yêu mến em. Em bắt đầu đi học khi sáu tuổi, và các thầy giáo đều nhận ra nơi em một trí thông minh sắc sảo và một tâm hồn nhiệt thành, chính điều này đã giúp em nhanh chóng đạt được những kiến thức về cú pháp và văn chương chỉ trong thời gian ngắn.
Lúc bảy tuổi, Vinh Sơn theo đuổi đời tu và thậm chí còn được Giáo hội cung cấp tiền trợ cấp nữa. Mười hai tuổi, trí tuệ của cậu đã đủ khôn ngoan để dấn thân vào những đề tài triết học hóc búa, và cậu đã trải qua hai năm nghiên cứu những khái niệm trừu tượng đó. Lúc mười bốn tuổi cậu bắt đầu học thần học và chuyên tâm vào môn học này. Cậu bắt đầu nghiêm túc suy nghĩ về quyết định cho đời mình là theo tiếng Chúa gọi. Lúc này, cậu không ngừng tiến triển trên con đường nhân đức nhờ vào hồng ân luôn dồi dào trong tâm hồn. Cậu có thói quen dự lễ hằng ngày, và hết lòng ao ước trở thành linh mục. Cậu thường cầu nguyện lâu giờ và sốt sắng, cũng như có lòng kính mến cuộc khổ nạn của Chúa. Cậu năng đọc kinh Nhật Tụng kính Thánh Giá và kính Đức Mẹ. Cậu thường giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu trong tuần. Lòng yêu mến người nghèo khổ dẫn cậu đến việc thi hành muôn ngàn công việc bác ái khác nhau. Nhưng điều chính yếu chúng tôi muốn nhắm tới nơi cuộc đời của thánh nhân, đó là tính cách mà từ những năm đầu đời đã bộc lộ ơn gọi Tông đồ sau này.
Khi còn rất nhỏ, Vinh Sơn đã ghi nhớ những điểm chính trong các bài giảng cậu được nghe và lặp lại những điều đó cho mọi người trong gia đình khi cùng nhau ngồi bên lò sưởi. Cậu thường lôi kéo bạn bè đồng trang lứa ra khỏi những trò chơi vô bổ, tập họp chúng lại quanh mình, rồi trèo lên một đồi cỏ hay một bức tường, với sự nghiêm túc nhưng đầy duyên dáng, cậu kể lại cho chúng mọi điều cậu nhớ. Cậu cũng bắt chước các cử chỉ và động tác của những nhà giảng thuyết cậu kính phục. Khi lớn lên, cậu vẫn tiếp tục những việc này. Vì thế, suốt thời niên thiếu, cậu đã giúp bè bạn lớn lên trong điều hay lẽ phải, bằng việc nói cho chúng về Thiên Chúa, linh hồn và Thiên Đàng. Gương mẫu của cậu đã ghi khắc dấu ấn sống động trong lòng bạn bè. Mọi người xem cậu như một vị thánh, cậu lớn lên với những phép lạ kèm theo. Nhiều người được cậu trực tiếp hướng dẫn và khuyên răn, đã nỗ lực bắt chước các nhân đức và bước theo cậu.
***