Lòng đầy hy vọng, bà Primislava vội quay về phía cha Giaxintô và cầu xin: “Cha ơi, cha vui lòng cứu sống cháu Vislaus giúp con.”
Đôi tay già yếu run rẩy, mắt chăm chăm nhìn thi thể lạnh cóng của chàng trai mà ông hết sức yêu quý đang nằm bất động trước mặt, ông Gioan thì thào tán đồng: “Vâng thưa cha. Thật quá sức chịu đựng của chúng con!”
Bất chợt những tiếng van xin của tất cả những người giúp việc và bạn hữu của bà Primislava cũng đồng loạt vang lên như tiếng một cơn gió mạnh gào thét, cùng với những giọt nước mắt đau xót, họ van xin cha Giaxintô ra sức cầu khấn Lòng Thương Xót Chúa ban cho họ một ân huệ đặc biệt.
Ông Gioan thống thiết gào lên: “Cha ơi, chúng con xin thề sẽ không bao giờ phạm tội trọng nữa nếu được Chúa ban cho điều chúng con nài xin!”
Một thiếu nữ vừa giang tay hướng về bà Primislava vừa khẩn cầu cha Giaxintô: “Xin cha cho chúng con được chứng kiến quyền năng của Đức Trinh Nữ Rất Thánh!”
Một cụ bà mắt đẫm lệ nài xin: “Vâng, thưa cha, cha đã từng dạy là Đức Bà luôn ban cho cha bất cứ điều gì cha cầu khẩn cùng Người…”
Trái tim nhân ái của cha Giaxintô không thể làm ngơ trước những lời van xin của đám đông được nữa. Với những bước chân loạng choạng do phải đi bộ quá xa để đến Sernik, cha tiến về phía thi thể vô hồn, giang tay lên cầu nguyện:
“Vislaus, con ơi, con hãy tôn vinh Thiên Chúa! Hãy hồi sinh! Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Trong giây lát tất cả đều lặng yên. Rồi đột nhiên cả đám đông đều há hốc miệng: thi thể cậu bé đang nằm sóng soài trên đất từ từ chỗi dậy. Trong khi bà Primislava khuỵu xuống bên cạnh đứa con trai, thì đám đông la lên một tiếng thấu trời.
“Một phép lạ! Cha Giaxintô lại làm thêm một phép lạ thật kì diệu nữa!”
“Đúng vậy!” Những người khác cùng reo lên vui sướng. “Rốt cuộc Vislaus sống lại rồi!”
Liên tiếp những ngày sau đó, dân chúng lũ lượt kéo đến xin vị giảng thuyết lừng danh của thành phố Cracow giúp cho họ tìm lối thoát trong những khó khăn của cuộc sống. Vì đã cật lực giúp đỡ đám đông khốn khổ, nên cuối cùng khi trở về Tu viện Chúa Ba Ngôi, cha Giaxintô đã hoàn toàn kiệt sức.
“Cha phải đi ngủ ngay thôi! Cha đã quá lao lực ở Sernik rồi!” cha Bề trên kêu lên. Ngài lo lắng khi thấy chỉ mấy ngày vắng mặt mà sức khoẻ cha Giaxintô đã suy giảm trông thấy.
Cha Giaxintô mỉm cười. “Thưa cha Bề trên, con không sao đâu. Con chỉ hơi mệt một chút thôi.”
Tuy nhiên vào ngày lễ kính thánh Đa Minh, mọi người biết rằng cha Giaxintô chẳng còn sống được bao lâu nữa. Sau 37 năm dốc sức cho công việc truyền giáo, giờ đây ngài đã kiệt sức và chẳng còn thiết tha gì với cuộc đời này nữa. Đúng thế, khát vọng độc nhất và cháy bỏng của ngài là càng sớm về hưởng nhan Chúa là một hồng phúc.
Bằng giọng trịnh trọng, cha Bề trên nói với cộng đoàn: “Tại sao vậy? Bởi vì người cha tốt lành của chúng ta đã được thoáng chiêm ngưỡng Nước Trời! Cha Giaxintô đã nhìn thấy phần nào phần thưởng dành sẵn cho những ai thi hành thánh ý Chúa, và bây giờ đối với ngài, ngay cả những điều tốt đẹp nhất trên đời chẳng hơn gì cát bụi.”
Cha Giám sư Tập viện nài nỉ: “Thưa cha, xin hãy kể cho chúng con biết về thị kiến tuyệt vời đó, điều đó sẽ giúp ích cho chúng con.”
Thế là cha Bề trên bắt đầu câu chuyện. Một vài ngày trước đây khi vừa kết thúc thánh lễ, cha Giaxintô nhận thấy ngài đang ở giữa một luồng ánh sáng rực rỡ phát ra từ một nguồn huyền diệu phía trên bàn thờ. Khi ngước nhìn lên, cha bỡ ngỡ khi thấy hàng trăm thiên thần và các thánh trong ánh sáng chói loà, lạ thường đó. Rồi đột nhiên, một luồng sáng chói loà hơn nữa bừng lên, cha nhìn thấy cửa Thiên Đàng rộng mở. Các thiên thần và các thánh xếp thành hai hàng đối diện nhau, và phía trên cùng là một ngai vàng rực rỡ.
Giọng cha Bề trên trở nên thành kính. “Đức Mẹ đang ngự trên ngai, có Chúa Giêsu đứng bên cạnh. Không gian ngập tràn tiếng nhạc du dương của các thánh và các thiên thần đồng thanh chúc tụng Thánh Mẫu và Thánh Tử. Rồi bỗng nhiên bản hoà tấu ngưng lại. Trong khung cảnh thinh lặng, Đức Chúa dâng kính lên Thánh Mẫu của Người một triều thiên rực rỡ kết bằng muôn sắc hoa và những vì sao sáng ngời.
Với một sự ngạc nhiên xen lẫn sự hồi hộp đến nín thở, cộng đoàn lắng nghe cha Bề trên miêu tả khung cảnh đó. Đức Trinh Nữ mỉm cười, lấy vương miện lấp lánh đó ban cho cha Giaxintô.
Đức Mẹ nói: “Vương miện biểu tượng của sự sống vĩnh cửu này Mẹ ban cho con.” Và ngay lúc Thánh Mẫu dứt lời, các thánh và thiên thần lại tiếp tục cất vang nhạc khúc thiên đình. Khuôn mặt các ngài chói ngời hạnh phúc đến nỗi cha Giaxintô không thể ngước nhìn. Thực thế, lúc này cha chỉ còn một mong muốn duy nhất là chấm dứt ngay lập tức mọi công việc nơi trần thế này, để được cùng với các thánh hưởng đời sống vĩnh cửu.
Trong khi ngày tháng cứ thế dần trôi, thì các anh em linh mục và tu huynh trong Tu viện Chúa Ba Ngôi vẫn chu toàn bổn phận thường nhật của mình, nhưng với một tinh thần chiêm niệm sâu xa. Bởi vì thị kiến của cha Giaxintô về Thiên Đàng, theo lời kể lại của cha Bề trên, đã tác động mạnh mẽ tới họ, khiến cho ngay cả một công việc tầm thường nhất cũng được chiêm ngắm trong ánh sáng mới: chỉ cần trung thành hoàn tất công việc ấy là bạn đã có thể đánh đổi được những niềm vui vĩnh cửu.
Một linh mục trẻ chậm rãi góp lời: “Hẳn chúng ta xưa nay vẫn đều biết sự việc phải như thế, vấn đề là chúng ta lại chưa bao giờ suy tư điều ấy cho thấu đáo. Còn bây giờ…. Vâng, tôi phải vui mừng thú nhận là tôi không còn có thể quên được nguyên tắc quan trọng đó.”
Một vị khác tán thành: “Vâng đúng vậy. Chiếc triều thiên kết bằng muôn đoá hoa và ngàn vì sao lấp lánh ấy theo tôi còn mang ý nghĩa nhiều hơn thế nữa. Đó chỉ là một dấu chỉ rất khiêm tốn về tất cả những niềm vui các thánh nhận được trên Thiên Quốc.”
Vị linh mục kia gật đầu đồng ý. “Tôi biết. Cho dù chúng ta có dành trọn cuộc đời mình để kể ra những điều tốt lành Thiên Chúa ban cho những ai trung thành phục vụ Người ở trần gian đi nữa, thì cũng chỉ có thể liệt kê được một phần nhỏ thôi.”
Trong lúc những ngày tháng tám ấm áp trôi qua, cha Giaxintô trở nên yếu đi rất nhiều, nhưng cha vẫn cứ nài nỉ được cử hành Thánh lễ vào mỗi buổi sáng và tham dự giờ Kinh Phụng vụ với cộng đoàn. Tuy nhiên, trong đêm vọng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời, chỉ vài phút nữa là đồng hồ điểm mười hai giờ, cha gọi anh Flrorian, người luôn túc trực bên cạnh giường của cha. Mặc dù đã hầu như kiệt lực, cha vẫn mong muốn được cùng anh em hát Kinh Sáng và Kinh Sách của ngày lễ trọng.
Cha thì thào: “Ta không thể cử hành Thánh lễ vào ngày mai để tôn vinh Đức Maria được rồi, nhưng chắc ta vẫn có thể cùng với anh em ca tụng Mẹ.”
Anh Florian cố gắng thuyết phục cha nghỉ ngơi, nhưng vô ích. Cha Giaxintô nài xin anh Florian đưa cha đến chỗ ngồi quen thuộc trong nhà nguyện. Tại đó, lần cuối cùng cha được tham dự buổi hát Thánh vịnh và cầu nguyện trong ngày lễ trọng mừng kính Mẹ Lên Trời. Những âm thanh quen thuộc và thánh thiêng trong màn đêm đó khiến cha hồi tưởng lại những năm tháng xưa kia. Những ngày ấy không phải là ngày 15 tháng 8 năm 1257 hiện nay, lúc mà cha đã là một ông lão đầu tóc bạc phơ, chân tay suy yếu. Không, lúc ấy hãy còn là ngày 15 tháng 8 năm 1224, cha mới 39 tuổi và là Bề trên của Tu viện Chúa Ba Ngôi vừa mới được thành lập, tâm trí còn đầy ắp những dự định cho công cuộc loan báo Tin Mừng cho toàn bộ Bắc Âu. Bỗng nhiên có một giọng nói dịu dàng vang lên:
“Mừng vui lên, hỡi Giaxintô! Lời cầu nguyện của con làm vui lòng Thánh Tử của Mẹ. Từ bây giờ, tất cả những gì con nhân danh Mẹ mà xin Người đều sẽ được chấp thuận.”
Cha Giaxintô mỉm cười về buổi tối tuyệt vời khi Đức Mẹ hiện ra đàm đạo với cha. Mẹ đã giữ lời hứa. Từ đó, chưa bao giờ cha cầu xin điều gì nhân danh Đức Mẹ mà bị từ chối. Các phép lạ, các cuộc hoán cải, những thành công của anh em truyền giáo đều nhờ vào tấm lòng ưu ái của Mẹ.
Cha thì thầm: “Lạy Mẹ kính yêu, cám ơn Mẹ. Con cám ơn Mẹ nhiều lắm!”
Ngay sau buổi nguyện kinh, anh Florian chuẩn bị đưa cha Giaxintô trở về phòng. Nhưng cha Giaxintô đưa tay cản lại. Mặc dù cha không đủ sức để cử hành Thánh lễ trong dịp lễ trọng này đi nữa, nhưng ít ra cha vẫn còn có thể rước Chúa trong Bí tích Thánh Thể.
Cha Giaxintô khẽ nói: “Có lẽ cha Bề trên sẽ sẵn lòng cử hành Thánh lễ của riêng ngài ngay bây giờ, và cho ta được rước Mình Thánh Chúa. Con vui lòng giúp cha nhé.” Tất nhiên cha Bề trên đồng ý. Do đó, thay vì quay về phòng tiếp tục giấc ngủ bị gián đoạn, các tu sĩ Tu viện Chúa Ba Ngôi nán lại nhà nguyện tham dự Thánh lễ.
Thoạt đầu, gian cung thánh lung linh ánh nến, một sự im lặng bao trùm, trừ những lúc cha Bề trên cất giọng đọc lời nguyện trong Thánh lễ và cộng đoàn đáp lại. Hết người này đến người khác, các tu sĩ trong cộng đoàn cố kìm lại những giọt nước mắt. Nhìn thấy cha Giaxintô đang quỳ gần bậc cấp bàn thờ, mọi người không còn giữ những nỗi xúc động được nữa. Tại sao thế? Vì khuôn mặt của vị cha già đang toả sáng khi tham dự Thánh lễ cuối cùng trong cuộc đời mình. Cha hoàn toàn quên đi những gì đang diễn ra chung quanh. Thậm chí ngài cũng chẳng nhận ra được mình đang giơ đôi tay yếu ớt lặp lại cùng một động tác của vị linh mục chủ tế trên bàn thờ.
Đến phần dâng bánh rượu, trong khi cha Bề trên nâng cao đĩa đựng Bánh Thánh, mà chút nữa sẽ trở thành Mình Thánh Chúa Kitô, thì cha Giám tập ghé sát vào một cha khác đang đứng bên cạnh mình, thì thầm: “Nhìn cha Giaxintô kìa!”
Mọi người đều nhìn lại, và ai nấy đều sửng sốt kinh ngạc. Cha Giaxintô cũng giơ đôi tay lên. Thêm một lần nữa, và với tất cả lòng yêu mến, cha hiến dâng thân mình lên Cha Hằng Hữu để làm vui lòng Người. Dù già yếu, sức cùng lực kiệt, cha đang cố gắng thực hiện điều mà cả cuộc đời cha đã cống hiến – hoàn toàn tuân phục Thánh Ý Thiên Chúa. Vị linh mục bên cạnh cha Giám tập lau nước mắt, thì thầm: “Đây là bài giảng hay nhất của cha mà chúng ta không bao giờ được phép lãng quên.”
Vừa sau khi cha Giaxintô rước lễ, và sau phần tạ ơn ngắn gọn, cha để cho anh Florian dìu mình trở về phòng. Khi đi dọc hành lang, vị cha già đáng kính ấn mạnh vào tay của anh Florian và nhẹ nhàng nói: “Chúa đã hứa là cha sẽ sớm lìa xa anh em thôi. Con ơi, xin con hãy cầu nguyện cho giây phút ấy mau đến.” Nghe những lời này, anh Florian không kìm được đau buồn. Tất nhiên, mọi linh mục và anh em trong Tu viện đều quý mến cha Giaxintô. Bởi thế, khi nghe tin cha sắp qua đời, khắp cả thành phố đâu đâu cũng văng vẳng tiếng khóc thương. Nhưng trong tất cả những người yêu mến cha, chắc hẳn, khi cha qua đời, không ai chịu nhiều đau đớn và mất mát cho bằng chính anh Florian.
Anh nghĩ: “Mình đã ở với cha từ khi còn là một cậu bé. Mình chưa hề rời xa cha từ khi cha trao cho mình bộ tu phục này!”
Đúng vậy, suốt 35 năm qua, anh Florian đã cùng cha Giaxintô rong ruổi biết bao dặm đường trên hành trình truyền giáo suốt cả phương Bắc. Trong các chuyến đi này, anh đã làm tất cả những công việc nội trợ nhỏ bé để cha Bề trên đáng kính của mình được an tâm phục vụ. Để mưu ích cho các linh hồn, anh đã dũng cảm theo cha Giaxintô vào tận những vùng đầm lầy Masovia, những vùng rừng núi rậm rạp Pomerania và Phổ, bất chấp hiểm hoạ của bầy sói đói mồi. Anh đã từng vượt sông, leo núi và băng qua cả những cao nguyên lộng gió khắp cả Balan và Nga. Anh đã từng chứng kiến biết bao phép lạ xảy ra nhờ các bài giảng và những lời cầu nguyện của cha. Anh đã từng chứng kiến biết bao ngôi thánh đường và Tu viện được xây cất, rồi bị quân Mông Cổ tàn bạo phạm thánh và thiêu hủy. Còn bây giờ, tất cả chỉ còn là dĩ vãng. Anh đang ở Cracow, trong Tu viện Chúa Ba Ngôi, và cha Bề trên đáng kính của mình sắp sửa ra đi mãi mãi.
“Ôi, thưa cha! Không có cha, con biết làm gì đây?” anh nức nở. “Quê hương chúng ta rồi đây sẽ ra sao?” Cha Giaxintô thấu hiểu nỗi đau đớn cùng cực trong tâm hồn người môn đệ của mình, nên một lần nữa cha lại siết chặt tay anh và khẽ nói: “Cứ kiên trì, con ạ. Chút nữa, cha sẽ trao cho con một thông điệp.”
Vào giữa trưa, mọi người trong Tu viện nhận ra cha Giaxintô đã suy yếu lắm rồi. Cha lãnh nhận Bí tích Xức Dầu và thanh thản nằm trên giường, đôi tay nắm chặt cây thánh giá gỗ mà cha Bề trên vừa trao. Chỉ một vài tu sĩ có mặt trong căn phòng bé nhỏ của cha, nhưng có nhiều anh em khác đang quỳ cầu nguyện ngoài hành lang. Đứng bên giường cha, anh Florian có thể nhìn thấy mọi người cúi đầu, thì thầm cầu nguyện. Tuy vậy, không giây phút nào anh Florian rời mắt khỏi khuôn mặt cha Giaxintô, vì chẳng phải vừa rồi người cha đáng kính hứa để lại cho anh một thông điệp đó sao?
“Thưa cha, cha đừng quên!” Chốc chốc anh cứ lặp lại lời đó. “Con… chúng con… muốn có thông điệp này lắm!” Cho dù anh Florian cứ liên tục nhắc lại những lời ấy, nhưng mãi cho tới gần ba giờ, cha Giaxintô mới có vẻ nghe thấy. Lúc đó, cha mở mắt trìu mến nhìn người bạn đồng hành trung thành của cha thật lâu. Với một giọng nói sang sảng và mạnh mẽ, chẳng giống một người đang hấp hối chút nào, cha nói: “Cha không quên đâu!”
Trong khi anh Florian để ý lắng nghe, thì một luồng sáng siêu nhiên phát ra từ khuôn mặt của cha Giaxintô. “Con ạ, bây giờ cha về cùng Chúa, nhưng cha sẽ ở lại trong tâm hồn con. Bất cứ khi nào con gặp khó khăn, cứ nói cho cha biết, và cha sẽ đến trợ giúp con. Con hiểu chứ?”
Anh Florian cố nén tiếng nức nở. “Vâng, thưa cha. Con hiểu ạ.”
Cha Giaxintô thở dài. “Không, con chưa hiểu. Con có biết tại sao không? Bởi vì quá đau buồn mà con không nói ra là sâu thẳm trong lòng con, con cứ nghĩ rằng các vị thánh còn quá xa cách con. Song không đúng như thế đâu con ơi. Không đúng thế đâu!” Rồi cha Giaxintô trao sứ điệp của người. Đúng thế, cha sắp ly trần. Nhưng việc ngài ra đi có nghĩa là từ nay ngài sẽ còn giúp đỡ anh em đắc lực hơn. Một khi đã được ở trên Thiên Đàng, cha sẽ là một linh hồn hoàn hảo, đẹp lòng Chúa, vì thế những lời chuyển cầu của cha sẽ còn hiệu lực hơn khi cha còn sống trên dương thế.
Cha nhấn mạnh: “Con hãy tin vào những gì cha vừa mới nói, và hãy gắng tin rằng cha sẽ không bao giờ rời khỏi đất nước Balan. Cha sẽ ở lại với đất nước thân yêu của cha cho đến cùng.” Cha Bề trên lo lắng nghiêng người xuống: “Có phải trong tương lai, đất nước chúng ta sẽ chịu nhiều khó khăn thử thách không, thưa cha?” Người anh em sắp từ giã thế gian này gật đầu. “Đúng vậy. Nhưng thưa cha Bề trên, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đừng lo lắng, cha ạ!” Bỗng dưng một sự thay đổi xuất hiện trên khuôn mặt cha Giaxintô. Luồng ánh sáng kỳ diệu trong mắt cha Giaxintô vẫn rực lên, nhưng giọng nói của cha đã yếu dần. Cha mỉm cười từ biệt anh em lần cuối, rồi hướng nhìn cây thánh giá. Cha bắt đầu cầu nguyện bằng đoạn đầu của Thánh vịnh 30:
“Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa,
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con.”
Rồi cả cộng đoàn cùng đọc nhau đọc Thánh vịnh quen thuộc ấy. Chẳng mấy chốc, lời kinh vang lên khắp căn phòng nhỏ và dãy hành lang phía ngoài.
“Xin ghé tai nghe và mau mau cứu chữa.
Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con.
Núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là Chúa.
Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con.
Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi,
vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài.
Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín…”
Đột nhiên, cha Bề trên cúi xuống giường cha Giaxintô, rồi quay về phía cộng đoàn, cha bình thản nói: “Người cha tốt lành của chúng ta đã ra đi rồi.”
Anh Florian nhìn cha Bề trên và thầm nói: “Không hẳn thế đâu!”
New York, Lễ thánh Justinô, ngày 14 tháng 04 năm 1945.
***
“… CHA GIAXINTÔ CHẲNG NHẬN RA ĐƯỢC MÌNH ĐANG GIƠ ĐÔI TAY YẾU ỚT LẶP LẠI CÙNG MỘT ĐỘNG TÁC CỦA CHỦ TẾ TRÊN BÀN THỜ.”
– HẾT –